Cuộc trở về muộn màng sau 70 năm lưu đày của vua Duy Tân

Như tôi đã kể, cha tôi là người hay trầm tư, ít nói, kín đáo. Ông rất ít khi thổ lộ tâm tư tình cảm, nhất là chuyện đất nước, chính sự với vợ con.

Ngay từ năm 1927, cha tôi đã tham gia Hội địa phương bảo vệ Nhân quyền và quyền Công dân, đồng thời có chân trong Hội kín Franc-Maconnerie (Hội Tam Điểm), hội của những người thông thái và bác ái, ở nhiều quốc gia khác nhau muốn hiến thân cho sự vươn lên về phương diện tinh thần và luân lý. Nó khuyến khích thành viên hành động vì sự tiến bộ nhân loại.
Trong một thông điệp gửi cho Hội, cha tôi đã viết mở đầu như thế này: “Chúng ta đang trải qua những giờ phút nghiêm trọng. Khắp mọi nơi trên hành tinh, nhiều triệu chứng, có khi ít được nhận thức, chứng tỏ nhân loại đạt đến ngưỡng đòi hỏi phải thay đổi chiều hướng trên con đường phát triển mà chính ngay những triết gia vĩ đại nhất cũng khó lòng miêu tả một cách kiên quyết nếu họ ý thức khả năng sai lầm của chủng loại chúng ta”.
Rồi ông kết luận: “Hy vọng rồi một ngày, nhờ công tác của các bạn, Hội sẽ chiến thắng những hận thù giữa con người và giữa các nước, đồng thời hợp nhất nhân loại trong một tình huynh đệ trong sáng bằng cách bãi bỏ mãi mãi mọi tương phản giữa các giai cấp và các chủng tộc”.
Cha tôi đã công khai nói đến tự do, không ngần ngại đề cao tinh thần dân chủ, giải phóng dân nghèo tại một hòn đảo mà quyền hành nằm gọn trong tay một chính thể quý tộc. Song ông lại ngậm câm về quá khứ của mình, về những ước mong cho tương lai đất nước Việt Nam, về triều đại nhà Nguyễn.
Chỉ có một lần duy nhất trong đời, ngày 5 tháng 6 năm 1936, cha tôi đã viết một lá đơn gửi cho ông Bộ trưởng bộ thuộc địa, kể lại cuộc khởi nghĩa cùng Việt Nam Quang phục Hội vào ngày 3 tháng 5 năm 1916 và vai trò bất đắc dĩ của ông với mục đích xin được ân xá.
“Tôi đứng trước trường hợp phải chọn giữa hai đường: hoặc mặc để ám sát người Pháp và rồi dự một cuộc trấn áp đẫm máu hoặc tố cáo những đồng bào của tôi và phạm một cử chỉ hèn hạ. Để thoát ra trường hợp đau xót ấy, tôi chỉ còn một phương cách: nhận làm chỉ huy cuộc khởi nghĩa”.
Cuoc tro ve muon mang sau 70 nam luu day cua vua Duy Tan
Năm 1987, hài cốt vua Duy Tân được đưa về an táng trọng thể tại An Lăng, Huế. 
Lá đơn ấy của cha tôi đã không được hồi âm. Suốt những năm tháng ở đảo La Réunion, cha tôi luôn nuôi hy vọng trở về Việt Nam để làm được một điều gì đó cho đất nước. Có ít nhất 4 lần cha tôi được một số người đề nghị cùng trốn khỏi đảo để trở về Việt Nam nhưng cha tôi đều từ chối. Bởi người muốn về một cách công khai, đàng hoàng.
Cha tôi là người cầu tiến, ham học hỏi. Ông là người tiên phong tiếp cận với kỹ thuật vô tuyến điện trên hòn đảo hẻo lánh này và đã tham gia xây dựng đài thu phát truyền tin đầu tiên ở đây. Hiện nay, tại nơi này, vẫn còn lưu dấu ấn của cha tôi bằng việc chính quyền sở tại xây một cây cầu nhỏ mang tên ông và đến năm 1992, thành phố Saint-Denis, nơi cả gia đình tôi trú ngụ ngày xưa (số 67 Sainte-Anne), đã khánh thành đại lộ Duy Tân.
Cha tôi rất say mê chơi thể thao, rèn luyện sức khỏe và học tập không ngừng để mở mang trí tuệ. Nhưng niềm say mê lớn nhất của ông chính là vô tuyến điện. Bởi ngành kỹ thuật này không chỉ giúp cha tôi nuôi sống cả gia đình mà còn là phương tiện duy nhất giúp ông liên lạc được với thế giới bên ngoài.
Rất tinh thông trong ngành vô tuyến điện nhờ đã tự học thêm, ông có viết nhiều bài kỹ thuật trong các báo chuyên môn và tiếp xúc với nhiều chuyên viên vô tuyến nghiệp dư các nước khác qua tín hiệu FR8VX. Ngay chính quyền địa phương cũng nhờ ông dựng một đài thu phát cho đảo.
Nhờ có máy mạnh, ông đã bắt được những đài quốc tế, từ Delhi, Sài Gòn qua Tokyo, Melbourne, ngay cả những đài bên Mỹ. Nhờ đó mà vào ngày 18 tháng 6 năm 1940, cha tôi đã nghe được bản tin hiệu triệu của tướng Charles De Gaulle - người đứng đầu của tổ chức chống Phát xít Đức mang tên Pháp tự do, ở đài BBC trong chương trình “Tiếng nói của nước Pháp”.
Cuoc tro ve muon mang sau 70 nam luu day cua vua Duy Tan-Hinh-2
 Mộ phần vua Duy Tân cạnh nơi an nghỉ của vua cha Thành Thái.
Sự việc nước Pháp bại trận trong chiến tranh thế giới thứ hai, đầu hàng phát xít Đức và sau đó lực lượng kháng chiến Pháp ở hải ngoại do tướng Charles De Gaulle đứng đầu được thành lập ở Anh trở về tái chiếm đất Pháp đã có tác động rất lớn đến tư tưởng, tình cảm của cha tôi. Ông xem Charles De Gaulle là thần tượng, là hình mẫu cho hoạt động cứu nước của mình.
Lập tức ông nối liên lạc với nước Pháp tự do và tìm cách chuyển tin cho quân đội Pháp chưa đến đảo. Nhờ ông mà nhóm người kháng chiến ở đảo theo dõi được diễn biến của cuộc thế chiến thứ hai và nhất là những bước tiến của quân Đồng Minh. Ông trở thành linh hồn của nhóm kháng chiến ở đảo. Vụ việc đổ bể, ông bị nhà cầm quyền La Réunion (lúc đó theo Chính phủ Vichy) bắt giam sáu tuần, từ ngày 7 tháng 5 đến ngày 19 tháng 6 năm 1942.
Sau ngày giải phóng, chính phủ nước Pháp tự do, qua đề nghị của ông Capagorry, Thống đốc mới, không quên công lao của cha tôi, đã tặng thưởng ông Huy chương Kháng chiến với phù hiệu. Trong thư cám ơn Tướng De Gaulle, cha tôi viết: “Khi tiếp nhận tôi trong số những người, không chấp nhận nước Pháp bị hạ thấp vì thua một trận, ông đã làm vinh dự tôi, khiến tôi gắn bó nhiều hơn nữa, với lời thề phụng sự một Tổ quốc đã cho tôi thừa kế một gia sản tinh thần”.
Ngày 28 tháng 11 năm 1942, khi chiếc khu trục hạm Léopard dưới quyền của ông thuyền trưởng Richard cập bến Saint-Denis, cha tôi đã tình nguyện nhập ngũ. Ông phó thuyền trưởng Baraquin thấy cha tôi có nhiều kiến thức về vô tuyến điện, nhận ngay ông làm hạ sĩ vô tuyến. Vài ngày sau, khi tàu rời bến, cha tôi đã bận đồ thủy thủ rời đảo La Réunion, chấm dứt 26 năm biệt xứ và mở một trang sử mới cho đời ông.
Ba tháng phục vụ với cấp bậc hạ sĩ vô tuyến, cha tôi bị giải ngũ vì lý do sức khỏe. Sau nhờ thống đốc La Réunion là ông A. Capagory can thiệp, cha tôi gia nhập bộ binh Pháp dưới quyền của tướng Catroux với cấp bậc binh nhì.
Cuoc tro ve muon mang sau 70 nam luu day cua vua Duy Tan-Hinh-3
Ngay từ năm 1927, Vua Duy Tân đã có chân trong Hội kín Franc-Maconnerie. 
Một thời gian sau, ông được thăng lên chuẩn úy rồi sang châu Âu. Ngày 5 tháng 5 năm 1945, cha tôi được lệnh chuyển về phòng Quân sự của tướng Charles De Gaulle ở Paris. Ngày 20 tháng 7 năm 1945, ông được đưa qua phục vụ tại Bộ tham mưu của Sư đoàn 9 Bộ binh Thuộc địa đóng ở Forêt Noire, nước Đức.
Ngày 29 tháng 10 năm 1945, tướng Charles de Gaulle ký một sắc lệnh hợp thức hóa những sự thăng cấp liên tiếp của cha tôi trong Quân đội Pháp: Thiếu úy từ 5 tháng 12 năm 1942, Trung úy từ 5 tháng 12 năm 1943, Đại úy tháng 12 năm 1944 và Thiếu tá ngày 25 tháng 9 năm 1945.
Việc cha tôi, một ông vua đã từng nổi dậy chống chính quyền thuộc địa Pháp thống trị nước ông, bây giờ lại chạy theo ông tướng lưu vong Charles De Gaulle muốn giải phóng nước Pháp khỏi cuộc chiếm đóng của phát xít Đức khiến nhiều người xem đây là một trường hợp oái ăm, một trong những mâu thuẫn lớn nhất trong đời Hoàng thân Vĩnh San.
Bởi “nước Pháp tự do” và nước Pháp thực dân mà ông chống đối đều là một nước Pháp. Nhưng thật ra, cha tôi chỉ tranh đấu dành tự do độc lập cho một quốc gia, một dân tộc, dù là Việt Nam hay Pháp. Tinh thần này ông đã có từ lâu, có thể ngay từ những ngày thụ giáo ông thái phó Eberhardt, tiến sĩ khoa học, ở kinh đô Huế. Tuy nhiên, nhiều người lại cho rằng, cựu hoàng Duy Tân đã bị dùng như một con bài chính trị trong kế hoạch mật tái chiếm Đông Dương của Pháp.
Ngày 14 tháng 12 năm 1945, tướng Charles de Gaulle đã tiếp cha tôi. Trong tập “Hồi ký chiến tranh”, tướng De Gaulle ghi: “Tôi sẽ tiếp Cựu hoàng (Vĩnh San) và sẽ cùng ông xét xem chúng tôi sẽ làm được những gì? Đó là một nhân vật đầy cương nghị. Mặc dù bị lưu đày ròng rã 30 năm trời, hình ảnh của ông không hề phai mờ trong tâm hồn của dân tộc Việt Nam”.
Trong tác phẩm “Histoire du Việt Nam de 1940 à 1952” (Lịch sử Việt Nam 1940-1942), sử gia Philippe de Villers nhận xét: “Bảo Đại đã thoái vị và bị phê bình nghiêm khắc. Nhưng lần này, người được chú ý chính là nhân vật tiền nhiệm, Duy Tân. Bị lưu đày năm lên 16 tuổi, ông đã đầu quân vào Không lực Pháp và tham gia các cuộc chiến đấu ở Pháp và Đức. Ông đã trình bày chính kiến với Chính phủ Pháp và với một trung úy của Quân đoàn I sắp qua Đông Dương là ông Bousquet, cựu chánh văn phòng của Tổng trưởng Abel Bonnard”.
Một bạn thân của cha tôi là E.P Thébault kể lại trong bài “Số phận bi thảm của một hoàng đế An Nam: Vĩnh San - Duy Tân” đăng trên Revue France-Asie, năm 1970: “Trở lại Paris ngày 16 tháng 12 năm 1945, tôi thấy Ngài mặc một bộ đồ nhà binh rất đẹp, có gắn bốn lon. Bây giờ Ngài trọ ở khách sạn Louvres, trước hý viện Pháp.
Ngài nói: “Như vậy là xong rồi, quyết định rồi! Chính phủ Pháp sẽ đặt tôi lại trên ngôi Hoàng đế Việt Nam. Tướng De Gaulle sẽ theo tôi trở về bên đó (Việt Nam) vào những ngày đầu tháng 3 năm 1946”. Từ nay tới đó, người ta sẽ chuẩn bị dư luận của Pháp cũng như quốc tế và Đông Dương. Vả lại, cũng còn cần phải dự thảo các bổn thoả ước giữa hai chính phủ nữa”.
Trong hồi ký “Bên dòng lịch sử 1940-1965”, linh mục Cao Văn Luận ghi lại rằng, mùa đông 1944 và đầu năm 1945, cùng với một số du học sinh Việt và Việt kiều, ông có tiếp xúc ba lần với cha tôi ở Paris. Lần đầu, cha tôi giải thích: “Người Pháp đang cần sự hợp tác của chúng ta để tái chiếm Đông Dương. Họ có thể chấp nhận cho ta thành một quốc gia tự trị trong Liên Hiệp Pháp.
Điều đó không trái với quyền lợi quốc gia. Dần dà chúng ta đòi thêm quyền hành. Chúng ta biết làm gì hơn trước binh lực hùng hậu của Pháp và hậu thuẫn của đồng minh Tây phương? Chúng ta đã thấy những gương chống Pháp và tôi đây là nạn nhân của một lối chống nóng nảy, vụng về. Rồi đất nước chúng ta phải chịu một cảnh chiến tranh tàn khốc mà kết quả chưa biết là thắng hay bại”.
Lần thứ hai, cha tôi tâm sự: “Riêng về phần tôi, lòng yêu quê hương Việt Nam không cho phép tôi để ngỏ cửa cho một cuộc tranh chấp nội bộ nào. Điều mà tôi mong muốn là tất cả các con dân Việt Nam ý thức được rằng: họ là một quốc gia và ý thức ấy sẽ thúc đẩy họ dựng lên một nước Việt Nam xứng đáng là quốc gia.
Tôi tưởng rằng tôi sẽ làm tròn bổn phận của một công dân Việt Nam khi nào mà tôi làm cho những người nông dân Lạng Sơn, Huế, Cà Mau ý thức được tình huynh đệ của họ. Nghĩa hợp quần ấy được thực hiện dưới bất cứ chế độ nào: cộng sản, xã hội chủ nghĩa, bảo hoàng hay quân chủ. Điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là phải cứu dân tộc Việt Nam khỏi cái họa phân chia”.
Suốt đời mình, cha tôi chỉ mong ước duy nhất một điều, đó là được trở về Việt Nam và tìm cách giúp nhân dân Việt Nam thoát khỏi sự thống trị của thực dân Pháp. Năm 1945, Thực dân Pháp đã dự định sử dụng ông như một quân cờ để quay lại tái chiếm Đông Dương.
Nhưng sau này, người Pháp nhận ra, sau gần 30 năm lưu đày, Cựu hoàng Duy Tân vẫn là người yêu nước, muốn chống Pháp và muốn dành quyền tự quyết cho dân tộc, nên thực dân Pháp đã từ bỏ ý định đưa ông về Việt Nam.
Bộ Thuộc địa đã phê trong tờ lý lịch cá nhân của cha tôi (được giải mật sau này): “Parait difficile à acheter, extrêmement indépendant... intrigue pour quitter la Réunion et rétablissement trône d'Annam”. (Có vẻ khó mua chuộc, rất độc lập, mưu đồ rời khỏi đảo La Réunion để tái lập ngôi báu ở An Nam). Cũng vì lẽ đó mà cha tôi đã không có cơ hội hồi hương, như ước mơ của ông suốt những năm tháng bị lưu đày.
Trong những tháng năm phục vụ cho quân đội Pháp, cha tôi vẫn hết lòng quan tâm, lo lắng cho anh em chúng tôi. Ông thường xuyên gửi thư về, dặn dò anh em chúng tôi đủ điều.
Trong một bức thư viết cho anh Yves Claude Vĩnh San vào ngày 17 tháng 11 năm 1945, ông nói: “Con đừng đi học mà đem về những điểm số yếu kém vì đối với người cha già đang yêu quý con đây thì cái cách duy nhất mà con cần bày tỏ là học cho thật giỏi và ăn ở tốt. Không có ngày nào mà cha không nghĩ đến con.
Con nên biết rằng, giờ đây, con là con trai của một vị chỉ huy quân đội Pháp. Con nên sống xứng đáng với tình cảm mà cha mẹ đã dành cho con. Lần sau cha sẽ viết thư dài cho con. Trìu mến hôn con. Dede”.
Ngày 24 tháng 12 năm 1945, cha tôi lên chiếc phi cơ Lockheed C-60 của Pháp cất cánh từ sân bay Bourget, Paris để trở về La Réunion thăm gia đình trước khi thi hành sứ mạng mới ở Việt Nam. Nhưng trên đường về, chiếc máy bay đã gặp một tai nạn rất khó hiểu, rớt gần làng Bassako, thuộc phân khu M'Baiki, Cộng hòa Trung Phi khiến ông cùng 5 người có mặt trên chuyến bay tử nạn.
Theo nhiều người, đây có thể là một vụ mưu sát. Bởi việc cha tôi trở lại Việt Nam sẽ gây khó khăn cho Anh trong việc trao trả các thuộc địa. Cũng trong bài “Số phận bi thảm của một hoàng đế An Nam: Vĩnh San - Duy Tân”, E.P Thébault viết: “Ngày 17 tháng 12 năm 1945, mười hôm trước khi tử nạn, Duy Tân có linh cảm tính mạng ông bị đe dọa.
Khi cả hai đi ngang, lần chót trong vườn Tuileries, cựu hoàng nắm tay Thébault nói: “Anh bạn già Thébault của tôi ơi! Có cái gì báo với tôi rằng tôi sẽ không trị vì. Anh biết không, nước Anh chống lại việc tôi trở về Việt Nam. Họ đề nghị tặng tôi 30 triệu quan nếu tôi bỏ ý định ấy”.
Cuoc tro ve muon mang sau 70 nam luu day cua vua Duy Tan-Hinh-4
Hoàng tử Joseph Roger Vĩnh San kể về cha mình. 
Mãi đến ngày 28 tháng 3 năm 1987, hài cốt của cha tôi mới được gia đình đưa từ M'Baiki, Trung Phi về Paris làm lễ cầu siêu tại Viện Quốc tế Phật học Vincennes và sau đó đưa về an táng trọng thể tại An Lăng, Huế, cạnh nơi an nghỉ của vua cha Thành Thái, chấm dứt hành trình lưu đày 70 năm ở xứ người của một ông vua yêu nước thất cơ lỡ vận.
Lúc đưa hài cốt cha tôi về Huế, Nhà nước rất nhiệt tình giúp đỡ và nhiều vị quan chức cao cấp đã đến nghiêng mình, thắp nhang trước bàn thờ cha tôi. Từ bấy, anh em chúng tôi thường xuyên về Việt Nam để thăm phần mộ vua cha.
Viết về cuộc trở về của cha tôi, nhà thơ Nguyễn Duy đã có những vần thơ giản dị mà thấm thía, da diết:
VIẾNG VUA DUY TÂN
Ước gì về được Sông Hương
Thắp nhang mà lạy nắm xương lưu đày
Thế là đã trở về đây
Một con người ở chân mây cuối trời
Nắm xương lưu lạc xứ người
Tâm hồn thì vẫn ở nơi quê nhà
Ngai vàng vừa cũ vừa xa
Ánh vàng vương miện cũng là hư không
Mặt trời vẫn mọc đằng Đông
Lăng Minh Quân vẫn ở trong lòng người
Bao triều vua phế đi rồi
Người yêu nước chẳng mất ngôi bao giờ….

Khám phá ngôi trường nhà giáo Nguyễn Tất Thành từng dạy học

(Kiến Thức) - Trong thời gian dạy ở trường, thầy giáo Nguyễn Tất Thành dạy lớp nhì, chủ yếu là dạy chữ Quốc ngữ và Hán văn. 

Kham pha ngoi truong nha giao Nguyen Tat Thanh tung day hoc
Nằm ở TP Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Trường Dục Thanh hay Dục Thanh Học hiệu (Dục Thanh là viết tắt của Giáo Dục Thanh Thiếu Niên) là một di tích lịch sử đặc biệt gắn với cuộc đời hoạt động cách mạng thời trẻ của Bác Hồ.

Nỗi cơ cực của 2 vị Hoàng đế Việt bị Pháp lưu đày

Giống như Hàm Nghi, Thành Thái và Duy Tân là hai vị vua yêu nước Triều Nguyễn đã ủng hộ và tham gia phong trào nổi dậy chống Pháp. 

Hòn đảo Reunion thuộc Pháp dường như là miền đất hứa của những vĩ nhân sa cơ, như Said-Ali, Quốc vương của đảo quốc Comoros, Nữ hoàng Ranavalo của Madagasgar và gần đây nhất là 2 vị Cựu hoàng An Nam là Thành Thái và Duy Tân, hiện đang sống tại thủ đo St Denis.
Noi co cuc cua 2 vi Hoang de Viet bi Phap luu day
Hoàng tử Nguyễn Phúc Vĩnh San, tức Cựu hoàng Duy Tân, trong căn nhà đơn sơ của mình (Ảnh tư liệu) 
Tôi vốn đã rất tò mò muốn tìm hiểu thêm về đời sống của họ. Ai mà ngờ được công việc nhà báo đã cho tôi cơ hội được trực tiếp gặp cả 2 người họ.
Vị trí đảo Reunion (chấm đỏ phần bản đồ lớn) và thành phố St Denis, nơi 2 vị Cựu hoàng của Việt Nam sinh sống
Vị Hoàng tử "cái gì cũng biết làm"
Một buổi tối khi trở về từ chuyến đi dài mệt mỏi, tôi bị cuốn hút bởi dàn nhạc của Hội người yêu nhạc đang tập luyện vở kịch Peer Gynt trong sảnh khách sạn Hotel de ville. Sau một hồi chăm chú thưởng thức, tôi chú ý đến người đứng cạnh, một người đàn ông gốc Á thanh lịch. Người này sau đó bước lên sân khấu, trò chuyện thân mật với các nhạc công.
Tò mò, tôi nói:
"Anh thích âm nhạc của Grieg, Monsieur à?
"Tôi rất thích", anh ta trả lời. "Bản thân tôi có chơi đàn violin và cũng là thành viên của dàn nhạc này đấy".
"Ồ vậy sao? Vậy chắc anh thuộc vở Peer Gynt kỹ lắm nên mới thấy không cần phải tham dự buổi tập tối nay", tôi hỏi vặn.
"À không, tôi thường tham dự các buổi tập rất chuyên cần, nhưng Chủ nhật tuần trước tôi bị ngã khi tham gia một cuộc đua ngựa. Nhìn này, tôi phải băng bó kín cả tay phải".
"Ồ, tôi xin lỗi, vậy anh vừa là một nhạc công, vừa là một nài ngựa".
"Tôi còn là nhiếp ảnh gia, đoạt giải thưởng của Hội khoa học nghệ thuật. Nhà soạn nhạc yêu thích của tôi là Beethoven, Saint Saens và Gounod. Tôi cũng thích lái xe ô tô nữa".
Ngày càng sửng sốt, tôi tiếp tục nói chuyện với người đàn ông này, người mà dường như việc gì cũng biết làm. Sự tò mò của tôi được giải đáp lúc chúng tôi ra khỏi khách sạn và trao đổi với nhau danh thiếp của mình.
"Hoàng tử An Nam Vĩnh San", tấp danh thiếp đề.
"Ôi lạy chúa", tôi reo lên. "Tôi đang tự hỏi rằng liệu có thể tới thăm ngài được không thì hôm nay lại tình cờ có vinh dự được gặp ngài ở đây".
Một cách rất lịch sự, Cựu hoàng Duy Tân - được biết đến ở Reunion với tên gọi Hoàng tử Vĩnh Sa, cho tôi một cuộc hẹn tại nhà riêng ngay sáng hôm sau.
Không nguôi nỗi nhớ quê nhà
Sáng ngày hôm sau, tôi tới nơi hẹn. Đó là một căn nhà gỗ cấp bốn, có khoảng sân nhỏ xinh nằm trên đường Conseil, quận St Denis - nơi tập trung giới bình dân.
Đón tiếp tôi tại cửa là Hoàng tử Vĩnh San, người nhỏ nhắn, da ngăm đen, mái tóc đen chải chuốt cẩn thận. Ông mặc một chiếc áo khoác màu xám hợp thời trang, tiếp đón tôi một cách thân mật, với nụ cười trên môi.
Noi co cuc cua 2 vi Hoang de Viet bi Phap luu day-Hinh-2
Cựu hoàng Duy Tân trong bộ âu phục trước cửa ngôi nhà riêng của mình (Ảnh tư liệu) 
Hoàng tử Vĩnh San dẫn tôi đi thăm thú căn nhà của mình. Nó chỉ có 3 căn phòng nhỏ nhắn. Ở căn phòng đầu tiên có một chiếc bàn đầy giấy tờ và đồ vật lộn xộn, một chiếc ghế ọp ẹp. Ở căn phòng thứ hai là đầy rẫy những tấm ảnh được để bừa bộn. Căn phòng thứ 3 được chiếm dụng hoàn toàn bởi 2 chiếc giường ngủ.
Trong lúc tôi lắp đặt, tinh chỉnh máy ảnh của mình, Hoàng tử kể cho tôi nghe chuyện đời mình bằng thứ giọng Pháp chuẩn mực nhất có thể:
"Thời gian lên ngôi và trị vì từ năm 1907 đến năm 1916 là quãng đời đẹp nhất của tôi. Sau đó tôi được tiếp cận bởi một số thành viên từ một tổ chức của thanh niên An Nam (Việt Nam Quang Phục Hội), thuyết phục tôi lãnh đạo phong trào cách mạng. Ngày 3/5/1916, tôi rời kinh thành Huế để tham gia khởi nghĩa. Mọi chuyện sau đó nhanh chóng bị lộ, và chắc ông cũng biết về chuyện không may đó rồi. Tôi không cần nói thêm nữa".
Tiếp đó Hoàng tử kể về quãng đời lưu vong tại Reunion:
"Tôi tới Pointe des Galets (nằm ở Tây Bắc đảo Reunion) vào ngày 20/11/1916, sau hành trình 17 ngày đêm không ngừng nghỉ.
Vào lúc đó, tôi mới chỉ 19 tuổi. Tôi hoàn toàn mất phương hướng và ban đầu còn gặp khó khăn từ cả việc làm quen với thời tiết ở đây. Tôi thường xuyên bị đau ốm và từng 3 lần bị sốt rét đến tiểu ra máu.
Phải nói rằng tôi rất cảm ơn những người quen biết của mình và cư dân đảo Reunion, họ luôn dành sự quan tâm cho tôi.
Tôi không thể phàn nàn gì về đất nước đáng ngưỡng mộ này cả. Tôi đã đi thăm viếng hầu hết các thắng cảnh trên đảo. Tuy nhiên chúng không thể làm tôi nguôi nỗi nhớ An Nam.
Với chút tiền hỗ trợ ít ỏi từ Toàn quyền Đông Dương, tôi sống như thế này đây, rất đơn sơ, với anh trai tôi, Hoàng tử Vĩnh Chương. Vì lý do cá nhân, tôi không liên lạc với người chú của mình, Cựu hoàng Thành Thái(1).
Tôi đi làm nài ngựa cũng cốt để kiếm thêm chút thu nhập. Ít nhất thì nó cũng giúp tôi có đủ tiền mua chiếc xe hơi nhỏ mà ông đã chụp hình.
Mặc dù vậy, mong ước tha thiết nhất của tôi vẫn là được tới sống ở Paris, Pháp, nơi duy nhất tôi có thể thực sự thưởng thức niềm đam mê của mình với âm nhạc và văn chương".
Sau cùng, vị Cựu hoàng An Nam đưa cho tôi xem một quyển sách mà ông là tác giả, tựa đề "Trois nouvelles", xuất bản tại St Denis năm 1922. Cuốn sách là tuyển tập 2 truyện ngắn và một truyện tiếu lâm có 2 hồi.
Cựu hoàng Thành Thái: Cao ngạo và đầy tự tôn
Kết thúc cuộc hẹn ngắn ngủi với Hoàng tử Vĩnh San, tôi lên đường tìm gặp vị Cựu hoàng còn lại của An Nam đang sống tại Reunion, Cựu hoàng Thành Thái.
Trái với người cháu của mình, Thành Thái không sống chan hòa và được người dân địa phương biết đến nhiều. Khi tôi tìm nhà ông theo địa chỉ được cho, dường như không ai biết đến. Thấy một bé gái đang đứng bên đường, tôi vẫy hỏi:
"Bé ơi, cho bác hỏi nhà của Hoàng tử Bửu Lan với?".
"Ai thế ạ? Hoàng tử Bửu Lan là ai? Cháu không biết", cô bé đáp.
"À, chắc là bác tìm 'ông Vua Trung Hoa' đúng không ạ?", cô bé thốt lên sau giây lát suy nghĩ.
"Đúng, đúng là ông ấy, vị vua Trung Hoa".
"Nhưng nhà ông ấy không phải trên đường St Denis mà là đường Ste-Anne, nhà thứ 10. Ồ, mà ông ấy kìa, vị vua Trung Hoa!".
Noi co cuc cua 2 vi Hoang de Viet bi Phap luu day-Hinh-3
Vua Thành Thái trong bộ Hoàng bào (Ảnh tư liệu) 

Đọc nhiều nhất

Tin mới