Cuộc đời đại sư kỳ lạ bậc nhất Trung Hoa (2)

Chu Sỹ Hành cầm bản “Đạo hành bát nhã” ném thẳng vào lò lửa khiến ngọn lửa cháy bừng bừng bỗng tắt lịm, trong khi cuốn kinh vẫn nguyên vẹn.

Chuyến “Tây du” một đi không trở lại
Vào năm 260, Chu Sỹ Hành xuất phát từ Ung Châu (nay là Thiểm Tây) đi thẳng về phía Tây. Trải qua rất nhiều gian nan, hiểm trở, cuối cùng Chu Sỹ Hành cũng đến được nước Vu Điền, nay là Hòa Điền, Tân Cương.
Tại đây, quả nhiên Chu Sỹ Hành tìm thấy bản kinh “Đạo hành” nguyên bản bằng tiếng Phạn. Vui mừng khôn tả, ông lập tức sao chép lại nguyên bản 90 chương của kinh “Đạo hành bát nhã”. Vì cuốn kinh có 90 chương, nên sau này có người gọi là Cửu thập chương.
Sau khi sao chép xong nguyên bản tiếng Phạn, Chu Sỹ Hành định sai đệ tử của mình là Phất Như Đàn cùng 10 người khác đưa bộ kinh “Đạo hành bát nhã” tiếng Phạn về Lạc Dương. Tuy nhiên, các tín đồ Tiểu thừa tại nước Vu Điền cho rằng, nếu để Chu Sỹ Hành mang được bộ kinh “Đại hành bát nhã” của dòng Đại thừa về Trung Quốc ắt sẽ gây ra cản trở, ảnh hưởng không tốt cho sự phát triển của dòng tu Tiểu thừa tại đây.
Chính vì thế, họ mới vu cáo “Đại hành bát nhã” là loại kinh điển ngoại đạo và nói với Quốc vương nước Vu Điền rằng: “Sa môn người Hán dùng sách Bà La Môn để làm mê loạn chính điển, nếu như đại vương cho phép họ về nước, sự phát triển của đại pháp tất sẽ bị tàn lụi và tội lỗi tất cả là do đại vương mà ra”.
Vua nước Vu Điền nghe vậy, nhất định không cho phép Chu Sỹ Hành và các đệ tử ra khỏi đất nước, trở về Trung Quốc.
Ảnh minh họa. Nguồn: internet.
 Ảnh minh họa. Nguồn: internet.
Chuyện kể rằng, Chu Sỹ Hành biết chuyện những người thuộc dòng tu Tiểu thừa ở Vu Điền vu cáo mình thì vô cùng tức giận, bèn tới gặp Quốc vương Vu Điền nói rằng: trước mặt đức vua, ông sẽ ném bộ kinh “Đạo hành bát nhã” vào lửa, nếu lửa không thể thiêu rụi được bộ kinh, chứng tỏ nó không phải là loại “bàng môn tà đạo” như lời vu cáo và xin đức vua cho phép đưa kinh về Trung thổ.
Nói dứt lời, Chu Sỹ Hành cầm bản “Đạo hành bát nhã” ném thẳng vào lò lửa khiến ngọn lửa đang cháy bừng bừng bỗng tắt lịm, trong khi cuốn kinh vẫn nguyên vẹn và không mảy may tổn hại. Cả triều đình nước Vu Điền đều lấy làm kinh ngạc, còn những người thuộc tăng phái Tiểu thừa thì không nói được lời nào.
Một tiền lệ tốt
Tuy nhiên, đó dường như chỉ là một câu chuyện đẫm chất huyền thoại, được các tín đồ sau này tưởng tượng ra. Còn thực tế, phải mất tới 12 năm sau đó, nghĩa là tới năm 282, khi Chu Sỹ Hành mất, đệ tử của ông là Phất Như Đàn và một số đệ tử khác mới tìm được cách đưa bộ kinh “Cửu thập chương” về tới Trung thổ. Rồi lại phải mất gần mười năm sau đó, tới năm 291, Phất Như Đàn mới mời được người biên dịch cuốn kinh này từ tiếng Phạn ra tiếng Hán.
Theo sử sách ghi chép, năm 291, Phất Như Đàn mời một ban phiên dịch tập trung tại chùa Thủy Nam, huyện Đông Lưu, Hà Nam để tiến hành dịch kinh “Cửu thập chương”. Ban phiên dịch gồm có: Đại sư Vô La Xoa, người nước Vu Điền, đọc văn kinh tiếng Phạn, Đại sư Trúc Thúc Lan, khẩu dịch ra tiếng Hán và Chúc Thái Huyền và Chu Huyền Minh làm người ghi chép lại bằng chữ Hán.
Ảnh minh họa. Nguồn: internet.
 Ảnh minh họa. Nguồn: internet.
Bộ kinh được dịch xong vào tháng chạp năm đó, tuy nhiên, mãi đến 12 năm sau, tới đời Vua Tấn Huệ Đế niên hiệu Thái An năm thứ 2 (năm 303), Đại sư Trúc Pháp Tịch đến chùa Thủy Nam cùng Sa môn Trúc Thúc Lan đã hiệu đính và đổi lại thành kinh “Phóng quang bát nhã”.
Một năm sau, vào niên hiệu Vĩnh An nguyên niên, tức năm 304 thì hiệu đính xong. Như vậy, tính từ thời điểm Chu Sỹ Hành tới được Vu Điền lấy được kinh cho tới khi bộ kinh này được dịch hoàn tất tổng cộng mất tới hơn 30 năm. Cho tới khi bộ kinh này được dịch hoàn tất ra tiếng Hán theo đúng tâm nguyện của Chu Sỹ Hành thì ông đã qua đời hơn 20 năm.
Mặc dù Chu Sỹ Hành không thể tự tay mang bộ kinh về tới Trung thổ, phần dịch ra tiếng Hán của các đệ tử vẫn được tiến hành theo phương pháp cũ, nhiều chỗ không được hoàn thiện, tuy nhiên, các học giả đời sau đều thống nhất cho rằng, cuộc “Tây du” của Chu Sỹ Hành là một tiền lệ tốt cho những chuyến viễn du Tây Thiên cầu Phật pháp của Pháp Hiển hay Huyền Trang sau này. Hơn nữa, chuyến đi của Chu Sỹ Hành còn mở ra quá trình giao lưu về văn hóa và Phật giáo giữa Trung Quốc với các quốc gia nằm ở phía Tây.

Năng lực khai mở “Huệ nhãn” của Đại sư Tây Tạng

Một khi đã có Huệ nhãn thì dù ngồi tĩnh tọa trong viện, nơi núi cao hay trong rừng sâu vẫn có thể thấy những gì xảy ra ở khoảng cách xa.

Xứ Tây Tạng, được xem là "thánh địa" của những câu chuyện kỳ bí và tâm linh mà khoa học đang tìm cách lý giải. Đã có rất nhiều nhà khoa học và dân tộc học nổi tiếng "đơn phương độc mã" trèo đèo vượt núi trong tuyết lạnh để vào xứ sở của "đỉnh trời" không ngoài mục đích là tìm hiểu những gì thuộc lãnh vực siêu linh huyền bí.

Tại sao hoàng đế khai quốc thường hay giết công thần?

(Kiến Thức) - Khi địa vị và uy danh càng cao thì tình nghĩa càng mong manh. Người ta có thể chia sẻ hoạn nạn nhưng khó cùng nhau hưởng phú quý.

Đọc “Nhị thập tứ sử” khiến người ta hoang mang khi phát hiện ra gần một quy luật tàn nhẫn tồn tại trong đời thực, đó là, rất nhiều hoàng đế khai quốc trong lịch sử Trung Quốc sau khi thống nhất được thiên hạ thay vì ban thưởng công lao thì đều tìm cách giết công thần. Đây là sự thật tàn khốc, vong ân bội nghĩa của các bậc đế vương, rốt cục thì có bí mật gì?
Đọc “Nhị thập tứ sử” khiến người ta hoang mang khi phát hiện ra gần một quy luật tàn nhẫn tồn tại trong đời thực, đó là, rất nhiều hoàng đế khai quốc trong lịch sử Trung Quốc sau khi thống nhất được thiên hạ thay vì ban thưởng công lao thì đều tìm cách giết công thần. Đây là sự thật tàn khốc, vong ân bội nghĩa của các bậc đế vương, rốt cục thì có bí mật gì?
Trong lịch sử, hoàng đế Lưu Bang vốn là một kẻ vô lại ở Bái huyện, nhưng nhờ sự trợ giúp của rất nhiều anh em, ông ta đã thống nhất được thiên hạ, đăng cơ đại bảo. Người có công rất lớn chính là công thần Hàn Tín. Vào thời đó người ta còn xưng Hàn Tín là “quốc sĩ vô song”, "công cao vô nhị, lượt bất thế xuất”, “vương hầu tướng tương” nhưng cũng chính vì uy danh lừng lẫy của mình mà Hàn Tín đã phải nhận kết cục vô cùng bi thảm. Ảnh: Tạo hình nhân vật Hàn Tín trên phim ảnh.
 Trong lịch sử, hoàng đế Lưu Bang vốn là một kẻ vô lại ở Bái huyện, nhưng nhờ sự trợ giúp của rất nhiều anh em, ông ta đã thống nhất được thiên hạ, đăng cơ đại bảo. Người có công rất lớn chính là công thần Hàn Tín. Vào thời đó người ta còn xưng Hàn Tín là “quốc sĩ vô song”, "công cao vô nhị, lượt bất thế xuất”, “vương hầu tướng tương” nhưng cũng chính vì uy danh lừng lẫy của mình mà Hàn Tín đã phải nhận kết cục vô cùng bi thảm. Ảnh: Tạo hình nhân vật Hàn Tín trên phim ảnh.
Sau khi cùng Lưu Bang đánh đông dẹp tây, lập bao chiến công lừng lẫy, bình định thiên hạ thì ông qua đời. Điều bất hạnh là không chết vì tuổi già hay bệnh tật mà chết trong tay một mụ đàn bà tên Lã Trĩ hoàng hậu đương triều. Điều đau đớn hơn chính Lưu Bang lại ngầm ưng thuận cho vợ mình làm điều vong ân bội nghĩa đó. Con người sống với nhau là nhờ chữ “tình nghĩa”, nhưng khi địa vị và danh thế tăng lên thì tình nghĩa vô tình càng trở nên mong manh. Đã từng nhau đồng cam cộng khổ, nằm gai nếm mật, hoạn nạn có nhau mà giờ đây sao không thể cùng nhau hưởng phú quý?
 Sau khi cùng Lưu Bang đánh đông dẹp tây, lập bao chiến công lừng lẫy, bình định thiên hạ thì ông qua đời. Điều bất hạnh là không chết vì tuổi già hay bệnh tật mà chết trong tay một mụ đàn bà tên Lã Trĩ hoàng hậu đương triều. Điều đau đớn hơn chính Lưu Bang lại ngầm ưng thuận cho vợ mình làm điều vong ân bội nghĩa đó. Con người sống với nhau là nhờ chữ “tình nghĩa”, nhưng khi địa vị và danh thế tăng lên thì tình nghĩa vô tình càng trở nên mong manh. Đã từng nhau đồng cam cộng khổ, nằm gai nếm mật, hoạn nạn có nhau mà giờ đây sao không thể cùng nhau hưởng phú quý?
Chu Nguyên Chương cũng là một điển hình của hoàng đế khai quốc giết công thần. Ông ta là hoàng đế khai quốc nhà Minh, đồng thời được người đời ca tụng là một minh quân trong lịch sử. Nhưng cũng như Lưu Bang, vốn xuất thân hèn kém, đều từng là lưu manh, từng làm hòa thượng, có chăng chỉ hơn Lưu Bang có được cái tên “Trọng Bát” (Lưu Bang không được đặt tên, tên của ông chỉ là cách được phụ thân gọi giống cách gọi thông thường trong nhân gian như lão đại, lạo nhị... mà thành). Nhưng nếu xét cho cùng thì Chu Nguyên Chương lại tàn ác hơn Lưu Bang. Trước khi truyền ngôi cho thái tử, ông ta còn giết những người anh em đã đồng cam cộng khổ với mình như Hồ Duy Dung, Lam Ngọc, hơn nữa còn tịch thu hết tài sản, triệt cỏ tận gốc. Ảnh: Hoàng đế Chu Nguyên Chương.
 
Chu Nguyên Chương cũng là một điển hình của hoàng đế khai quốc giết công thần. Ông ta là hoàng đế khai quốc nhà Minh, đồng thời được người đời ca tụng là một minh quân trong lịch sử. Nhưng cũng như Lưu Bang, vốn xuất thân hèn kém, đều từng là lưu manh, từng làm hòa thượng, có chăng chỉ hơn Lưu Bang có được cái tên “Trọng Bát” (Lưu Bang không được đặt tên, tên của ông chỉ là cách được phụ thân gọi giống cách gọi thông thường trong nhân gian như lão đại, lạo nhị... mà thành). Nhưng nếu xét cho cùng thì Chu Nguyên Chương lại tàn ác hơn Lưu Bang. Trước khi truyền ngôi cho thái tử, ông ta còn giết những người anh em đã đồng cam cộng khổ với mình như Hồ Duy Dung, Lam Ngọc, hơn nữa còn tịch thu hết tài sản, triệt cỏ tận gốc. Ảnh: Hoàng đế Chu Nguyên Chương.

Đọc nhiều nhất

Tin mới