Bí mật địa đạo trên quê hương Đại tướng

(Kiến Thức) - Chiến tranh kết thúc, địa đạo Hoàn Vũ vẫn ôm trong mình những bí mật về cách đào hầm, cùng với đó là vô số bom mìn ẩn dật dưới đất cằn...

Một địa đạo "độc nhất vô nhị" ở tỉnh Quảng Bình nằm dưới chân núi Hoàn Vũ, thôn Văn La, xã Lương Ninh, huyện Quảng Ninh được người dân đào từ năm 1966 để tránh bom của đế quốc Mỹ.
Tay không đục đá
Địa đạo Văn La còn có tên gọi khác là địa đạo Hoàn Vũ. Khu địa đạo dài chừng 500m nằm dưới chân đồi Hoàn Vũ có địa thế hiểm trở, lưng tựa vào núi, mặt nhìn ra biển. Nơi đây lại được "tàng hình" bởi cây rừng um tùm khiến cho địch khó lòng phát hiện được quân ta khi ẩn nấp trong rừng.
Theo những tư liệu lịch sử mà chúng tôi có được thì địa đạo Văn La được đào từ năm 1966, lúc này, không quân Mỹ mở những đợt cường kích vô cùng ác liệt nhằm cắt đứt đường tiếp tế từ Bắc vào Nam, làm nhuệ khí quân ta suy sụp.
Theo ông Hoàng Minh Luyên, nguyên Bí thư Đảng ủy xã Lương Ninh thì ngày nào máy bay địch cũng bắn phá. Chúng đánh bất kể ngày hoặc đêm, không theo quy luật nào. Khi đó, hễ nghe thấy tiếng máy bay gầm rú thì kiểu gì chúng cũng lượn qua Văn La thả bom để truy quét quân ta, sau đó chúng đánh phà Quán Hàu và một số nơi trọng yếu nằm trên Quốc lộ 1A, đánh xong, chúng trở lại Văn La đánh tiếp một lượt nữa rồi mới chịu rút về.
Trước tình thế đó, lãnh đạo xã Lương Ninh cùng dân địa phương đã tổ chức đào địa đạo vào núi Hoàn Vũ làm chỗ cho người dân và bộ đội tránh bom. Đặc biệt, địa thế ở đây rất thuận lợi cho việc "công" và "thủ", từ hầm có thể dễ dàng tiến ra phía đường Quốc lộ 1 nhằm đánh chặn máy bay chiến đấu của địch, nhưng khi bị tấn công dồn dập thì có thể rút vào hầm trú ẩn an toàn.
Tuy nhiên, núi Hoàn Vũ lại có cấu tạo bằng đá phấn, đá sỏi và đá bàn, trong khi lực lượng địa phương không có bất kỳ một loại phương tiện hiện đại nào như máy khoan để đào hầm. Điều này khiến cho nhiều người coi việc đào hầm là chuyện không tưởng.
Địa đạo Văn La độc nhất vô nhị ở Quảng Bình.
Địa đạo Văn La độc nhất vô nhị ở Quảng Bình. 
Mệ Hoàng Thị Thèn, 73 tuổi, một trong hai nữ dân quân cuối cùng trực tiếp đào hầm còn sống kể lại: "Khi đào phải đá phấn thì chúng tôi lấy nước tát vào làm đá ngấm nước rồi đục dần, nếu gặp đá xanh thì phải dùng đục sắt lựa từng kẽ đá sau đó đánh bung từng tảng. Sau một năm hàng chục công nhân ra sức đào hầm mới khoét được vào lòng đất chưa đầy 100m. Hồi đó chỉ huy chúng tôi là ông Thịu, ông ấy đã hy sinh khi chống giặc, chính ông ấy là người đã nghĩ ra cách tát nước vào đá phấn và đục dần. Việc đào được hầm vào trong núi Hoàn Vũ là việc làm không tưởng. Sau này, lãnh đạo địa phương còn tròn mắt cảm phục lòng quyết tâm của chúng tôi".
Theo mệ Thèn thì sau khi đào được 100m hầm, lãnh đạo địa phương quyết định đào xuyên lòng núi Hoàn Vũ với 3 cửa theo hướng Nam, Đông và một cửa khác dẫn lên đỉnh núi. Trong hầm còn có cả trạm xá dã chiến, khu chỉ huy tiền phương để chống lại máy bay địch, phương pháp đào hầm vẫn như cũ, tức là vừa phun nước vào đá phấn vừa đào, chỉ trong vòng vài tháng huy động lực lượng với khoảng 10 người/ca đào liên tục mà đã thông được đến khoảng 300m hầm tiếp theo, đảm bảo an toàn cho toàn bộ dân làng Văn La, bộ đội địa phương...
Bí mật hố bom ngàn cân
Gần địa đạo Văn La là bến phà Quán Hàu, đây là tử huyệt nằm trên tuyến đường tiếp tế từ Bắc vào Nam, vì thế đế quốc Mỹ đêm ngày cho máy bay đến đánh phá. Từ khi địa đạo Văn La được hoàn thành, việc tổ chức chỉ huy đánh chặn máy bay địch, hạn chế thiệt hại về người và tài sản khiến cho đế quốc Mỹ càng đẩy mạnh cường độ đánh phá, chúng đánh cả ngày lẫn đêm.
Mỗi khi máy bay địch oanh kích, dân thường chạy vào địa đạo Văn La trú ẩn, bộ đội và dân công tổ chức đánh chặn máy bay địch, nếu chúng đánh mạnh thì rút vào địa đạo Văn La để bảo toàn lực lượng, chúng rút đi quân ta lại ra sửa chữa đường, cầu cống...
Mệ Hoàng Thị Thèn - người trực tiếp đào địa đạo Văn La.
Mệ Hoàng Thị Thèn - người trực tiếp đào địa đạo Văn La. 
Ông Hoàng Minh Luyên cho biết: "Khi đế quốc Mỹ phát hiện ra quân, dân ta trú ngụ đông ở địa đạo Văn La, chúng đã biến nơi đây thành một trong những trọng điểm đánh phá nhằm xóa sổ căn cứ quan trọng này, cắt đứt tuyến đường huyết mạch Bắc - Nam, chúng thả xuống đây đủ các loại bom, từ bom tấn, bom tạ cho đến bom bi... Hiểm họa để lại cho đến tận ngày nay đó là hàng tấn bom bi chưa nổ vẫn còn nằm ẩn dật dưới lòng đất. Có những thời điểm, dân địa phương phải bỏ những quả bom bi vào rổ rồi đổ vào bụi tre, luồng...".
Ông Luyên lo lắng cho biết: "Đến tận ngày hôm nay, hiểm họa đó vẫn còn y nguyên, đó là một hố bom bi với số lượng khoảng 1 tấn được chôn sâu cách mặt đất khoảng 2m nằm lẫn trong khu dân cư. Bom bi ở đây gồm có hai loại, một loại có cánh và loại không có cánh, kích thước to như nắm tay người. Lúc còn làm lãnh đạo xã thấy bom bi còn sót lại nhiều quá tôi đã huy động một số người dân đào một cái hố sâu rồi nhặt bom bi đổ xuống, đích thân tôi cũng nhặt cùng bà con đổ xuống cái hố này".
Dẫn chúng tôi đến một mô đất cao nằm ngay cạnh cổng vào của đài tưởng niệm liệt sĩ, ông Luyên vạch đám cỏ dại rồi hướng về một gốc cây keo vừa bị bão số 10 bẻ gãy bảo: "Dưới gốc cây keo này chính là hố bom bà chúng tôi đã chôn. Nếu hố bom này phát nổ thì vô cùng nguy hiểm với dân làng".
Trải qua thời gian, hố bom vẫn ẩn mình dưới lòng đất, nếu không may có người đụng vào thì có thể sẽ phát nổ, lúc đó hậu quả sẽ vô cùng tai hại.
Một mối nguy hiểm khác theo ông Luyên đó cũng chính là hàng tá bom bi nằm dưới những bụi tre rậm, vì dân làng hễ phát hiện bom là đem vứt vào bụi tre... trước đây, đã có người khi cầm quả bom bi đi vứt thì bom phát nổ ngay trên tay và chết mất xác.

"Trước đây, tôi đã báo cáo lên cấp trên về hố bom nguy hiểm nằm cạnh địa đạo Văn La, sau đó ít lâu cũng có một đội rà phá bom mìn về để dò nhưng không phát hiện được gì. Sau đó, những đoàn dò sắt vụn cũng đến nhưng vẫn không phát hiện ra, có lẽ do hố bom ở sâu quá nên làm cho máy dò khó phát hiện".

Ông Hoàng Minh Luyên

Khám phá bí mật trong “mê cung” Củ Chi

Nói về địa đạo Củ Chi, nhiều tướng lĩnh bên kia chiến tuyến đã phải thốt lên: “Đây quả là một công trình phức tạp và tinh vi mà không một kiến trúc sư nào có thể thiết kế được”. Quả thật đây đúng là một mê cung dưới lòng đất. Địa đạo Củ Chi nằm trên một địa bàn rộng lớn gồm 6 xã ở phía bắc huyện Củ Chi (TP Hồ Chí Minh). Trong kháng chiến chống Pháp, những mét địa đạo đầu tiên được du kích đào ở xã Tân Phú Trung, năm 1948.
 Nói về địa đạo Củ Chi, nhiều tướng lĩnh bên kia chiến tuyến đã phải thốt lên: “Đây quả là một công trình phức tạp và tinh vi mà không một kiến trúc sư nào có thể thiết kế được”. Quả thật đây đúng là một mê cung dưới lòng đất. Địa đạo Củ Chi nằm trên một địa bàn rộng lớn gồm 6 xã ở phía bắc huyện Củ Chi (TP Hồ Chí Minh). Trong kháng chiến chống Pháp, những mét địa đạo đầu tiên được du kích đào ở xã Tân Phú Trung, năm 1948. 
Đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, địa đạo tiếp tục được phát triển với quy mô lớn hơn và mức độ phức tạp hơn và đã nối liền 6 xã phía bắc huyện Củ Chi với tổng chiều dài lên tới 250 km.
 Đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, địa đạo tiếp tục được phát triển với quy mô lớn hơn và mức độ phức tạp hơn và đã nối liền 6 xã phía bắc huyện Củ Chi với tổng chiều dài lên tới 250 km. 
Toàn bộ hệ thống địa đạo gồm 3 tầng. Tầng 1 cách mặt đất khoảng 3m. Tầng 2 cách từ 4 đến 6m, tầng sâu nhất cách mặt đất 8 đến 10m, có chỗ đến 12m.
 Toàn bộ hệ thống địa đạo gồm 3 tầng. Tầng 1 cách mặt đất khoảng 3m. Tầng 2 cách từ 4 đến 6m, tầng sâu nhất cách mặt đất 8 đến 10m, có chỗ đến 12m.
Việc đào hệ thống địa đạo hoàn toàn chỉ bằng sức người với những cuốc xẻng thô sơ và cái ki xúc đất bằng tre.
 Việc đào hệ thống địa đạo hoàn toàn chỉ bằng sức người với những cuốc xẻng thô sơ và cái ki xúc đất bằng tre. 
Khối lượng đất đá hàng triệu m3 đào lên từ lòng đất được “phi tang” bằng nhiều cách: đổ xuống hố bom hoặc đem đắp thành ụ mối, có khi đổ xuống ruộng rồi cày bừa trồng hoa màu lên trên.
 Khối lượng đất đá hàng triệu m3 đào lên từ lòng đất được “phi tang” bằng nhiều cách: đổ xuống hố bom hoặc đem đắp thành ụ mối, có khi đổ xuống ruộng rồi cày bừa trồng hoa màu lên trên. 
Trong kháng chiến chống Mỹ, địa đạo Củ Chi đã hứng chịu tất cả các loại bom, pháo của Mỹ - Ngụy.
 Trong kháng chiến chống Mỹ, địa đạo Củ Chi đã hứng chịu tất cả các loại bom, pháo của Mỹ - Ngụy.
Kích thước địa đạo chỉ cao khoảng 70 cm, và đủ rộng cho 1 người đi khom.
 Kích thước địa đạo chỉ cao khoảng 70 cm, và đủ rộng cho 1 người đi khom.
Bên trong địa đạo là bản sao khổng lồ của đời sống trên mặt đất với đầy đủ nơi sinh hoạt, ngủ nghỉ…
 Bên trong địa đạo là bản sao khổng lồ của đời sống trên mặt đất với đầy đủ nơi sinh hoạt, ngủ nghỉ… 
Bếp Hoàng Cầm trong địa đạo với hệ thống tản khói để tránh bị máy bay phát hiện.
 Bếp Hoàng Cầm trong địa đạo với hệ thống tản khói để tránh bị máy bay phát hiện.
Phòng họp ở trong địa đạo.
 Phòng họp ở trong địa đạo.

Chông là loại vũ khí phổ biến và ám ảnh lính Mỹ nhất ở Củ Chi.
 Chông là loại vũ khí phổ biến và ám ảnh lính Mỹ nhất ở Củ Chi. 
Có đầy đủ các loại chông từ chông tre đến chông sắt với hình dáng và cách bố trí khác nhau đã gây ra nỗi ám ảnh cho quân đội Mỹ Ngụy.
 Có đầy đủ các loại chông từ chông tre đến chông sắt với hình dáng và cách bố trí khác nhau đã gây ra nỗi ám ảnh cho quân đội Mỹ Ngụy. 
Mô hình chông trục quay.
 Mô hình chông trục quay. 

Một lỗ thông hơi được ngụy trang bằng ụ mối.
 Một lỗ thông hơi được ngụy trang bằng ụ mối. 
Chỉ có 70m địa đạo mở cửa cho du khách tham quan nhưng nhiều người đã phải bỏ lên giữa chừng để thở và lắc đầu thán phục “Thế mà ngày xưa người ta sống cả năm ở trong này được”.
 Chỉ có 70m địa đạo mở cửa cho du khách tham quan nhưng nhiều người đã phải bỏ lên giữa chừng để thở và lắc đầu thán phục “Thế mà ngày xưa người ta sống cả năm ở trong này được”.
Hiện tại, chỉ còn một phần của hệ thống địa đạo ở Bến Dược (xưa là căn cứ của bộ tư lệnh Sài Gòn - Chợ Lớn) và địa đạo Bến Đình (căn cứ của huyện ủy Củ Chi). Trong ảnh là du khách đang đi xuống địa đạo.
 Hiện tại, chỉ còn một phần của hệ thống địa đạo ở Bến Dược (xưa là căn cứ của bộ tư lệnh Sài Gòn - Chợ Lớn) và địa đạo Bến Đình (căn cứ của huyện ủy Củ Chi). Trong ảnh là du khách đang đi xuống địa đạo.


“Mổ xẻ” cạm bẫy kinh hoàng ở địa đạo Việt

Sơ đồ mô phỏng địa đạo Củ Chi.
 Sơ đồ mô phỏng địa đạo Củ Chi.

Thành phố trong lòng đất

Sự kiên cường và sức chiến đấu mãnh liệt của quân và dân Củ Chi được duy trì bởi một hệ thống địa đạo – đường hầm nhiều tầng nhiều lớp kéo dài đến 200 km, được quân và dân Củ Chi kiến tạo liên tục trong rất nhiều năm liên tục, với vô số các cửa hầm bí mật lên mặt đất, các lỗ châu mai – hỏa lực bí mật, các hầm trú ẩn, các công xưởng ngầm dưới mặt đất, kho tàng và doanh trại trú quân, phía trên được bố trí dày đặc mìn và các hầm chông, cạm bẫy.

Mô tả về địa đạo Củ Chi rất đơn giản: Đây là hệ thống công sự ngầm bí mật ở dưới đất, các hệ thống công sự này được ngụy trang rất sâu và rất kỹ lưỡng trong rừng rậm nhiệt đới. Mục đích của hệ thống địa đạo Củ Chi – giáng những đòn tấn công bất ngờ vào quân địch trong giai đoạn những năm tham chiến của quân đội Mỹ ở Việt nam.

Hệ thống địa đạo – công sự chiến đấu được nghiên cứu và suy tính rất kỹ lưỡng với tính toán có thể tấn công tiêu diệt đối phương từ mọi phía. Mạng lưới phức tạp của những đường hầm chạy dích dắc lan tỏa về mọi hướng từ trục địa đạo chính và lan tỏa thành vô số các nhánh, có những nhánh là các hầm bí mật trú ẩn, cũng có những nhánh đột ngột thành ngõ cụt do điều kiện đặc biệt của địa hình.

Nhưng du kích quân thông minh và khéo léo Việt Nam, để tiết kiệm sức lực và thời gian, đã đào những đường hầm không sâu lắm, nhưng tính toán thiết kế sao cho, dù trong những trường hợp xe tăng và xe bọc thép di chuyển trên nóc hầm, phía trên bị nã pháo và ném bom - các đường hầm cũng không bị sụt, lún, sập và vẫn bền bỉ phục vụ những người đã xây dựng lên.

Cho đến ngày nay, hệ thống đường hầm – địa đạo nhiều tầng, nhiều lớp phức tạp vẫn còn giữ nguyên được như trong thời chiến tranh, với những nắp hầm và cửa hầm bí mật, liên thông các lối đi ngầm giữa các tầng hầm. Trong hệ thống đường hầm, ở những chỗ khác nhau có những cửa nút kín đặc biệt, được sử dụng để ngăn chặn địch hoặc ngăn chặn khí gas độc. Trên suốt chiều dài của tất cả các đường hầm đều có khoét những lỗ thông hơi và thông gió bí mật, thông lên trên mặt đất và được ngụy trang rất kín đáo. Một phần những cửa thông gió bí mật đều có thể sử dụng như một hỏa điểm bí mật, và đó luôn là một trong những bất ngờ lớn dành cho kẻ thù.


Đối với các du kích thông minh thì điều đó vẫn chưa đủ, đường hầm và những con đường dẫn đến được bố trí vô số những cạm bẫy chết người thông minh và khéo léo kết hợp với những hầm chông và các hố bẫy nguy hiểm khác. Đường vào hầm và ra khỏi hầm, để đảm bảo bí mật và an toàn cao, bố trí các trận địa mìn chống tăng và chống bộ binh đan xen dày đặc lẫn nhau.

Trong giai đoạn chiến tranh, có những lúc trong hệ thống đường hầm chứa được cả một đạo quân hoặc dân cư của cả một làng, điều đó giúp cho người Việt Nam bảo vệ được nhiều sinh mạng. Trong đường hầm có các kho dự trữ vũ khí trang bị, đạn và chất nổ các loại, lương thực thực phẩm và cơ sở vật chất ý tế chiến trường, có các bếp ăn không có khói (bếp Hoàng Cầm), bệnh viện dã chiến dành cho người bị thương, các căn hầm – phòng ngủ, các ban chỉ huy dã chiến, hầm trú ẩn và sinh hoạt dành cho phụ nữ, trẻ em và người già.

Nói chính xác hơn, đây không phải là làng mà là cả một thành phố trong lòng đất. Ngay cả trong thời kỳ chiến tranh, người Việt Nam cũng không quên văn hóa và giáo dục: trong các căn hầm được bố trí các phòng học, đồng thời nơi đó cũng có thể dùng để chiếu phim cách mạng và biểu diễn văn nghệ của các đoàn văn công chiến trường. Nhưng đặc biệt hơn, cả thế giới đó ẩn sâu bí mật trong lòng đất.

Dùng cả đến máy bay ném bom chiến lược B-52 và pháo binh hạng nặng, người Mỹ đã chà xát vùng Củ Chi nhiều năm trời, nhưng vô số các cuộc ném bom và các đợt pháo kích liên tục không đem lại kết quả mong muốn, Củ Chi vẫn là vùng đất chết cho lính thủy đánh bộ Mỹ và các thiết đoàn Sài Gòn, người Mỹ buộc phải tự mình chui xuống những địa đạo tối tăm đó. Không giống như những bộ phim của Holywood, (những con chuột đường hầm - Tunnel rats) được lựa chọn từ những binh sĩ không cao to, người gầy và liều lĩnh, sẵn sàng với một khẩu súng ngắn chui vào bóng đêm của cái chết. Trong đường hầm đó, chờ đợi lính Mỹ là sự chật chội đến nghẹt thở, bóng tối mù mịt, mìn, cạm bẫy, rắn độc, bò cạp, và sau đó nữa là những người du kích thiện chiến.

Những "con chuột" đường hầm chui xuống địa đạo Củ Chi.
 Những "con chuột" đường hầm chui xuống địa đạo Củ Chi.

Hệ thống địa đạo 3 tầng được đào vào trong nền đất sét cứng bằng những dụng cụ nông nghiệp thô sơ của rất nhiều các tổ nhóm người của nhiều thế hệ người dân Củ Chi, mỗi tổ đào hầm có từ 3 đến 4 người. Một người đào, một người kéo đất từ trong hầm ra một cái giếng sâu thẳng đứng, một người kéo thúng đất đào được lên phía trên, một người khiêng vác đi đâu đó, đổ giấu bí mật dưới những lùm cây rậm rạp hoặc đổ rải xuống sông.

Khi các tổ đào đã thông được địa đạo với nhau, giếng đào được đặt một cây tre thông xuốt làm ống thông hơi, giếng đào được lấp đi, lèn chặt và ống thông hơi được ngụy trang dưới dạng tổ mối hoặc gốc cây mục hay bất cứ hình dạng nào khác…

Cửa hầm bí mật chỉ có người Việt Nam mới có thể chui lọt.
 Cửa hầm bí mật chỉ có người Việt Nam mới có thể chui lọt.

Người Mỹ quyết định sử dụng chó săn để tìm kiếm những lỗ thông hơi và đường ra vào địa đạo. Các chiến sĩ du kích Củ Chi sử dụng quần áo lính Mỹ, thông thường là áo khoác M65 (người Việt hay gọi là áo Mỹ)  mà lính mỹ thường vất đi khi bị thương hoặc băng bó vết thương. Chó săn ngửi thấy mùi quen thuộc của Mỹ bỏ qua. Sau này du kích sử dụng hạt tiêu xay nhỏ vô hiệu hóa khứu giác của chó săn hoặc các bánh xà phòng của Mỹ, có tác dụng lâu hơn để đánh lừa chó săn của địch.

Nhiều trường hợp các cửa hầm bí mật cũng được tìm thấy, lính Mỹ cố gắng bơm nước hoặc khí gaz CS (làm cay, chảy nước mắt) vào đường hầm. Nhưng hệ thống nhiều tầng, nhiều ngách của địa đạo với vô số cánh cửa khép kín và các đường hầm ngập nước đã vô hiệu hóa mọi nỗ lực của quân đội Mỹ, du kích Việt Nam chỉ đơn giản mất đi một khúc đường hầm, đánh sập tường của đường hầm bịt kín luôn cả hai đầu và quên luôn đoạn hầm đó, họ đào một đường hầm khác đi vòng qua và mọi nỗ lực của lính Mỹ không đem lại kết quả gì.

Mô hình công binh xưởng dưới lòng địa đạo Củ Chi.
 Mô hình công binh xưởng dưới lòng địa đạo Củ Chi.

Địa đạo Củ Chi trong suốt những năm chiến tranh không chỉ là công sự, là hầm trủ ẩn mà còn đóng vai công binh xưởng, cung cấp vũ khí, trang thiết bị chiến tranh thô sơ và thô sơ kết hợp với hiện đại nhằm tiêu diệt quân thù. Đối với du kích, sắt thép và thuốc nổ là những vật chất vô cùng quý giá, và người Mỹ cung cấp đều đặn thông qua các đợt đánh phá mưa bom bão đạn (chỉ cần có dấu hiệu nghi ngờ - ánh sáng, làn khói, tiếng động...) ngay tức khắc các thảm bom B-52 sẽ quét sạch cây cối trong khu vực, biến một vùng rộng lớn thành bề mặt của mặt trăng.

Mìn chống tăng tự tạo, dàn phóng bom bi tự tạo của du kích Vành đai thép Củ Chi.
 Mìn chống tăng tự tạo, dàn phóng bom bi tự tạo của du kích Vành đai thép Củ Chi.

Nhưng chiến sĩ du kích dũng cảm thu nhặt những quả bom lớn nhỏ - từ bom phá, bom xuyên đến bom bi, đạn pháo của địch, một số loại bom lớn được tháo kíp, cưa ra để lấy thuốc nổ, các loại nhỏ hơn dễ mang vác như đạn pháo 105, bom bi, đạn 20 ly được sử dụng làm các loại mìn tự tạo. Sắt thép được sử dụng để rèn lên các mũi chông và đinh nhọn phục vụ cạm bẫy và các vật dụng chiến trường khác.

Ngoài các công binh xưởng, trong địa đạo có đầy đủ nhà ăn tập thể, bếp tập thể Hoàng Cầm, xưởng may mặc đồ quân dụng và dân sự. Rừng rậm Việt Nam và đất thép Củ chi mang trong mình nó rất nhiều những bất ngờ nguy hiểm đối với kẻ thù, nó có thể là những quả mìn tự chế, đủ sức xuyên thủng cả xe tăng M41, hoặc cũng có thể là những chiếc bẫy thô sơ tự chế, được Holywood sử dụng trong những bộ phim chiến tranh nổi tiếng của mình. Thực tế của những vũ khí đó đang còn được trưng bày ở Viện bảo tàng Củ Chi.

Xe tăng chiến lợi phẩm M48, một thời kỳ là sở chỉ huy của du kích Củ Chi.
 Xe tăng chiến lợi phẩm M48, một thời kỳ là sở chỉ huy của du kích Củ Chi.

Những cạm bẫy kinh hoàng

Trong chiến tranh chống Mỹ, vũ khí thô sơ đã đóng một vai trò quan trọng, nó bẻ gẫy ý chí xâm lược của kẻ thù. Chúng ta hãy xem những vũ khí tự chế - sự khiếp sợ mà người Việt Nam dành cho quân xâm lược.

Cạm bẫy của Việt Nam, là những vũ khí thô sơ tự chế, nhưng vô cùng nguy hiểm và hiệu quả, đã làm cho lực lượng viễn chinh Mỹ tổn thất khá nhiều về sinh lực. Có thể, một ngày nào đó, chúng ta cũng phải dùng đến những kiểu vũ khí tương tự.

Hầm chông gây ra nỗi khiếp đảm cho lính Mỹ.
 Hầm chông gây ra nỗi khiếp đảm cho lính Mỹ.

Hầm chông bẫy cọp – GIS (lính Mỹ) đang cơ động nhẹ nhàng trên đường mòn, bất ngờ đất dưới chân anh ta sụt xuống và lính Mỹ rơi vào một cái hố đầy chông tre hoặc chông sắt sắc nhọn. Nếu như anh ta may mắn và không chết ngay, anh ta sẽ gào lên vì đau đớn, các binh sĩ còn lại sẽ xúm vào tìm cách lôi anh ta lên khỏi cái hầm chông kinh hoàng đó. Thông thường xung quanh hầm chông đó có những cửa bí mật, những hỏa điểm đáng sợ của các xạ thủ du kích bắn tỉa.


Quà tặng của Việt Nam (Vietnamese souvenir)- còn gọi là Chông thò. Một vũ khí tự tạo có tính chất công nghệ. Trong hố sâu có chông sắt cắm chéo, phái trên có một tấm ván tròn có dây dù kéo căng, nối với những mũi đinh sắt dài sắc nhọn. Khi GIS dẫm chân lên cái hố được ngụy trang kỹ càng bằng lá khô, cỏ hoặc đất, chân bị thụt xuống và kéo theo cả tấm ván mỏng, những chiếc đinh sắt từ 4 bên đâm xuyên vào đùi và các cây chông đâm chéo vào cổ chân, không thể kéo người bị thương ra khỏi hố nếu không đào rộng ra và lôi cả những chiếc đinh lên. Thường trong trường hợp đó, binh sĩ không chết nhưng chắc chắn bị tổn thương hoàn toàn phần chân, phải nhanh chóng đưa về quân y viện ở Sài Gòn để mổ, người lính được tặng những chiếc đinh làm kỷ niệm, do đó Chông thò còn có tên là Kỷ niệm Việt Nam.

Chông hom – Một loại chông có cấu trúc như cái hom giỏ cả, các mũi nhọn không những có trách nhiệm đâm vào cổ chân, mà còn buộc GIS không thể di chuyển được. Chông hom thường được ngâm dưới ruộng nước hoặc bãi bùn lầy bên dòng sông. Lính đổ bộ nhẩy từ trên máy bay trực thăng xuống hoặc từ xuồng trên sông và… đứng yên với cái hom sắt xuyên sâu vào cổ chân.


Cũng có những thứ vũ khí tự tạo không đơn thuần chỉ sát thương, mà còn tạo lên những cơn ác mộng kinh hoàng cho người còn lại – chông trục xoay. Trên 2 trục tròn quay tự do được gắn những chiếc chông – đinh sắt, dẫm chân lên, GIS nhanh chóng tạo ra rất nhiều lỗ thủng trên cơ thể.


Đối với những kẻ thích đột nhập vào nhà mà không gõ cửa, hoặc phá cửa bằng một cú đạp của giày đinh, du kích Việt Nam rộng lòng tặng cho họ loại Chông bổ có cấu trúc khác đặc biệt, đơn giản là 2 thanh chữ T nối với nhau theo kiểu neo đập lúa, được buộc lên trên trần nhà và nối với cánh cửa, khi cánh cửa được mở ra hết tầm, chông bổ sẽ lao xuống và GIS đi thẳng xuống địa ngục, nếu anh ta kịp đưa súng lên đỡ, phần từ đùi và bụng sẽ bị tổn thương chắc chắn.

Chông cánh. Đây là một kiểu chông rất đơn giản. Các chiến sĩ du kích nhỏ tuổi của Việt Nam đã chế tạo nó trong các giờ thực hành. Nguyên tắc thực sự đơn giản. Đặt hai tấm ván sát nhaucó cắm chông sắt vào một chiếc hố nhỏ có hai bậc và khi kẻ thù dẫm vào cái hố đó, những chiếc đinh nhọn, đã được nhiễm bẩn đâm xuyên vào cổ chân. Đảm bảo chắc chắn sẽ bị nhiễm trùng vết thương và nhiễm trùng máu nếu không kịp đưa đến bệnh viện.

Chông cần cối – Được chế tạo theo nguyên tắc đòn bẩy, trên các tấm ván cả hai đầu cần có những chiếc chông sắt nhọn. Khi kẻ thù giẫm chân lên một đầu, đầu kia sẽ bật lên và đập thẳng vào vùng ngực và đầu với những chiếc chông.

Chông nách- được tạo lên từ hai tấm ván cắm đầy đinh dài sắc nhọn, có thể di chuyển về hai phía và gắn vào với nhau bằng dây cao su hay lò xo. Hai tấm ván được kéo dãn ra và được chống bằng thanh chống ngang – thường là thanh tre cứng. Khi lính Mỹ bước lên trên hố và dẫm tụt thanh chống, anh ta sẽ rơi xuống hố và giang hai tay ra chống đỡ cú thụt hố, hai tấm ván với những cái đinh di chuyển vào giữa găm vào thân thể người lọt bẫy.

Chông bồ cào. Mở rộng cửa đón những GIS, chế tạo cái bẫy này khá đơn giản. Chỉ cần hai ống tre đặc gắn lại với nhau thành hình chữ T, thanh ngang được đóng những chiếc chông nhọn sắc dài, chông bổ được treo lên cao, nối với một cái dây và sợi dây nhỏ được giăng ngang mặt đất – thường sử dụng dây cước để khó nhận ra, khi lính địch bước vào cửa và vướng vào sợi dây, kết quả sẽ là hai ống chân hoặc bắp đùi sẽ bị chông xuyên thủng.


Ngoài ra, còn có chông cánh cửa, chông tự động, có cấu tạo tương tự những loại cạm bẫy đã nêu, nhưng tùy theo tình huống và địa hình để bố trí sắp đặt.

Trong những khu vực rừng rậm nhiệt đới chưa bị sự tàn phá dữ dội của pháo bầy và bom rải thảm, lính Mỹ vấp phải những cái bẫy săn thú lớn như trâu bò rừng, hổ báo.


Bẫy cần bật – Dùng một cây tre già uốn cong, đầu thân cây che được gắn những thanh tre hoặc gỗ vót nhọn, buộc vào một cái giá để giữ và kết nối với sơi dây bẫy, thường là dây cước cần câu mỏng manh giăng đâu đó ngang tầm đầu gối trên đường mòn. Khi kẻ thù vướng vào dây bẫy, dây kéo căng sẽ tháo chốt hãm cần bật, và cây tre cùng với những thanh tre, gỗ vót nhọn sẽ quất ngang thân thể binh sĩ không may mắn. Thông thường khi trúng, binh sĩ tử thương ngay tức khắc.

Bẫy chông treo, tương tự như bẫy cần bật là một khúc gỗ, một giỏ đá hoặc bao đá, cắm đầy những mũi chông tre hoặc sắt sắc nhọn, thường được đặt, treo ở trên các thân cây cao ngoài tầm nhìn, kết nối với dây bẫy, khi đối phương vướng vào hoặc được một chiến sĩ du kích nấp đâu đó giật mạnh, khúc gỗ, bao đá cắm chông sẽ lao từ trên xuống nạn nhân, thông thường để tấn công nhóm binh sĩ đông người.


Bẫy chông rơi, cũng tương tự như chông treo, là một tấm đan bằng những thanh tre già, cứng, gắn tua tủa những mũi chông sắc nhọn, đặt thêm vật nặng như đá, gạch để tăng cường sức tấn công, khi đối phương rơi vào bẫy, dàn chông sẽ lao xuống cùng với gạch đá sát thương đối phương.

Ngoài những chiếc bẫy chông khá phức tạp, lính Mỹ còn phải đối mặt với những loại vũ khí tự tạo vô cùng nguy hiểm nhưng lại rất khó chịu vì khó tìm kiếm. và sức sáng tạo của các loại vũ khí sát thương đó thì dường như là vô cùng, từ những mũi xiên săn thú rừng, quả lựu đạn mỏ vịt, đến những viên đạn 7,62mm, đạn 12,7 mm thông thường, thêm một chút sáng tạo vào, và đó là những cái bẫy chết người.

Bẫy mũi xiên. Một mẫu kết hợp giữa nỏ của người Tây nguyên và ống phóng xiên cá đồng bằng Bắc bộ, mũi xiên được nén lại bằng lò xo hoặc đặt trên dàn phóng căng của dây cao su, hãm bằng chốt cành cây với 1 sơi dây cước dùng thể tháo chốt hãm, khi lính Mỹ đá vào dây, chốt hãm bung ra và mũi xiên, đã được nhiễm bẩn – có thể là dầu máy hoặc máu cá xuyên ngang người hoặc ống chân, bắp đùi, đảm bảo chắc chắn nhiễm trùng máu.

Bẫy bằng đạn bắn thẳng; một cái ống tre, cắm vào một miếng sắt có một cái vấu như kim hỏa, một cái lò xo bút bi và viên đạn. Chôn bẫy đó trên đường mòn, khi GIS dẫm chân lên, viên đạn đi xuống phía dưới và chạm vào kim hỏa vấu. Nhẹ thì đạn xuyên qua bàn chân, bị thương nặng hơn có thể là cả chân hoặc tử vong.

 

Bẫy lựu đạn: Quả lựu đạn mỏ vịt được rút chốt và nhét vào ống bơ sữa bò hoặc ống tre, buộc ngang trong bụi rậm hoặc ngâm trong vũng nước bùn lầy hay kênh, rạch. Khi lính thủy đánh bộ hoặc biệt kích, lính bộ binh đi qua gạt vào sơi dây, quả lựu đạn bung ra. Kết quả tất nhiên sẽ rất tàn khốc đối với nhóm binh sĩ không may mắn.

BÀI LIÊN QUAN 

Đọc nhiều nhất

Tin mới