Bí mật Chúa Bầu dưới Cổ thành Trung Đô

(Kiến Thức) - Những bí mật về Chúa Bầu dần được bóc tách trong những lớp đất sâu dưới di chỉ khảo cổ thành Trung Đô.

Từ xưa, cao nguyên trắng Bắc Hà (Lào Cai) đã có một ngôi đền thiêng thờ anh hùng Gia quốc công Vũ Văn Mật mà người bản địa vẫn quen gọi là Chúa Bầu.
Chúa Bầu cao nguyên 
Ông Ngô Văn Huân, Cán bộ Phòng Văn hoá - Thông tin huyện Bắc Hà cho biết, sử sách ghi lại vào thời vua Lê Chiêu Tông (1516 - 1522) tại làng Ba Động, huyện Gia Phúc (nay là Gia Lộc, Hải Dương). Hai anh em họ Vũ lúc bấy giờ là Vũ Văn Uyên và Vũ Văn Mật đã lên Khau Bầu - Đại Đồng của trấn Tuyên Quang sinh sống, lập nghiệp. 
Sau một thời gian ngắn, thấy tù trưởng Đại Đồng tàn ác, bất nhân, ngược đãi dân lành, lại xảy ra nạn giặc giã cướp bóc khắp nơi, anh em họ Vũ đã tích trữ lương thảo, chiêu binh mãi mã cùng người dân địa phương thu phục được nhiều tù trưởng người dân tộc thiểu số lập nghiệp trên vùng đất của trấn Tuyên Quang.
Các sử gia đều đánh giá về những việc làm của hai đầu lĩnh họ Vũ đã thu phục được dân chúng trong vùng về tụ hội, sinh cơ lập nghiệp. Họ Vũ đã chọn vùng đất Phúc Khánh (nay là thị trấn Phố Ràng của huyện Bảo Yên, Lào Cai) để xây dựng căn cứ, đặt doanh Yên Bắc. 
Từ đó, vùng đất này trở nên đông đúc bởi người Kinh dưới xuôi di cư lên sát cánh cùng người Tày, người Nùng, người Dao và nhiều đồng bào dân tộc thiểu số khác làm cho vùng đất dọc theo sông Chảy lên tận tổng Ngọc Uyển (Bảo Nhai ngày nay) thịnh vượng dài lâu.
Cụ Cừ chỉ phiến đá thiêng sau đền.
Cụ Cừ chỉ phiến đá thiêng sau đền. 
Sau một thời gian dài, số binh sĩ của anh em họ Vũ lên tới hàng vạn người, họ liên kết với các tù trưởng tiến hành xây dựng vùng căn cứ ngược ven dòng sông Hồng và sông Chảy. Ở đâu có loạn đều được Vũ Văn Mật dẹp loạn, giúp nhà Lê chống giặc xâm lấn biên ải. 
Trong "Kiến văn Tiểu Lục" của Lê Quý Đôn đã viết: "Ở vùng Ngọc Uyển (tức là Trung Đô, Bảo Nhai và vùng phụ cận bây giờ) Mật đã cho xây thành, đắp lũy chống nhau với nhà Mạc ngót 20 năm ròng". 
Gia quốc công Vũ Văn Mật đã cho đắp thành Nghị Lang vững chãi, xây lũy cứ ở Trung Đô tổng Ngọc Uyển để giữ yên bờ cõi, không cho giặc ngoài xâm lấn. Còn Vũ Văn Uyên được triều đình phong cho chức Đô Tổng binh trấn Tuyên Quang và tước Khánh Dương Hầu.
Khi nhà Mạc chiếm ngôi nhà Lê (1527 - 1592), tình hình trở nên bất ổn, giặc giã nổi lên khắp nơi, giặc phương Bắc thừa cơ nhòm ngó biên ải. Anh em nhà họ Vũ kêu gọi các tù trưởng người dân tộc thiểu số trấn giữ các cửa thành không cho quân nhà Mạc lên phá thành và giặc ngoài tràn đến.
Sau khi Vũ Văn Uyên chết, Vũ Văn Mật tiếp tục trấn giữ nơi biên giới phía Tây và được vua Lê Trang Tông (1533 - 1548) sắc phong Tổng binh trấn Tuyên Quang, tước Gia quốc công Vũ Văn Mật tiến hành thiết lập lại vùng Đại Đồng kéo dài đến vùng Ngọc Uyển của châu Thủy Vĩ thành 11 dinh. Đồng thời, cử các tướng dưới quyền trông coi cẩn mật. 
Vì Vũ Văn Mật cho dời căn cứ từ thành Nghị Lang, xây thành đắp lũy trên Gò Bầu nên nhân dân địa phương gọi ông là Chúa Bầu. Sau khi Vũ Văn Mật qua đời, con trai là Vũ Công Kỷ tiếp tục trấn thủ. Họ Vũ sau hơn một trăm năm đã kết thúc vai trò lịch sử ở trấn Tuyên Quang kéo dài lên tận vùng phía Bắc châu Thủy Vĩ, nơi triều đình nhà Lê gọi là dinh An Tây. Đền thờ Bắc Hà cũng được hình thành để tỏ sự thành kính, tưởng nhớ công lao đối với Chúa Bầu.
Đền Trung Đô nhận bằng công nhận di tích.
Đền Trung Đô nhận bằng công nhận di tích. 
Ngôi đền thiêng
Ông Trần Quang Phượng, Trưởng ban Quản lý đền Bắc Hà cho biết, trước đây đền Bắc Hà chỉ là một ngôi đền nhỏ án ngữ dưới gốc cây cổ thụ nghìn năm tuổi. Một cành của cây cổ thụ bị gãy cắt đôi ngôi đền nhưng ban thờ chính và bát hương không bị ảnh hưởng.
Qua mỗi đời, ngôi đền lại được trùng tu rộng rãi thêm. Và những chuyện linh thiêng cũng từ đó lan truyền. Nhiều kẻ vì hám lợi vào đền trộm cắp đồ cổ đã bị quả báo. Thậm chí, có người ở huyện Bắc Hà vào đền lấy 3 pho tượng Tam Đa, gia đình đang êm ấm bỗng dưng phát điên phát dại. 
Chuyện mới nhất cách đây chưa lâu, có một người mang vật quý vào đền nhưng lại ngồi lên tảng đá phía sau đền. Khi vị khách đứng lên thì không còn thấy vật quý đâu nữa. Nghĩ đã mạo phạm đến Chúa Bầu nên người ấy gặp từ đền thắp hương khấn vái. Khi ra tảng đá, lại thấy vật quý xuất hiện.
"Nói đến chuyện tâm linh thì nhiều khi hư cấu. Theo tôi thì đền nào cũng thiêng nếu chúng ta thành tâm. Đền Bắc Hà cũng vậy nên rất nhiều người coi đây là điểm tựa tâm linh. Họ đến để cầu an, cầu tài lộc và xin con với những vợ chồng hiếm muộn", ông Phượng cho biết.
Cụ Đỗ Văn Cừ (80 tuổi) là người gắn bó với đền Bắc Hà từ rất lâu nên hiểu mọi chuyện. Cụ Cừ bảo, ngôi đền này không đơn thuần chỉ là thờ Chúa Bầu mà còn thờ cả những tướng lĩnh dưới trướng của ông. Nên theo quan niệm tâm linh, đền Bắc Hà còn là nơi ngự trị của quan quân triều đình nên sự tôn kính là cần thiết.
Chiếc điếu cày của Chúa Bầu.
Chiếc điếu cày của Chúa Bầu. 
Chiếc điếu cày bí ẩn 
Trên ban thờ Chúa Bầu hiện nay, vẫn còn những vật dụng như đạn súng thần công, những chiếc bát đĩa của Vũ Văn Mật xưa kia. Thậm chí, chiếc điếu cày mạ đồng hình rồng phượng cũng được tìm thấy trong khi khai quật di chỉ khảo cổ thành Trung Đô.
Thành Trung Đô xưa được xây dựng vào thế kỷ XVIII để thờ Chúa Bầu. Trong khi khai quật, các nhà khảo cổ đã tìm thấy một số vật dụng như súng thần công cùng một số sắc phong do vua ban. Trong đó, có cả chiếc điếu cày mà nhiều người cho rằng, chủ nhân của nó chính là Chúa Bầu.
Tuy các sử sách không nhắc đến việc Gia quốc công Vũ Văn Mật nghiện thuốc lào nhưng những câu chuyện dân gian thì khẳng định chắc như đinh đóng cột rằng, chiếc điếu cày ấy là do chính Chúa Bầu sử dụng khi còn sống. Vì vậy, chiếc điếu được đặt long trọng trên ban thờ cùng các vật dụng khác.
Cụ Đỗ Văn Cừ cho hay: "Những vật dụng này cần phải được bảo vệ, gìn giữ cẩn thận. Vừa rồi, khi vào Nghệ An tìm mộ Chúa Bầu ở huyện Yên Thành chúng tôi cũng đã thu thập được 6 sắc phong do vua Lê ban cho Chúa Bầu. Đó là những chứng cứ chứng tỏ công lao của Gia quốc công đối với đất nước".
Hiện tại, thành Trung Đô còn 3 ngôi mộ ở dưới một gốc cây lớn. Một mộ đôi của vợ chồng tướng quân dưới trướng Chúa Bầu là Hoàng Vần Thùng. Ngôi mộ còn lại là của con gái Chúa Bầu tên là Vũ Nàng Hiến. Các nhà khảo cổ cho rằng, tuy đã khai quật thành Trung Đô nhưng những bí mật của Chúa Bầu vẫn chưa thể khai mở bóc tách hết.
"Ở đền Trung Đô, tướng quân Hoàng Vần Thùng kế tục sự nghiệp của Chúa Bầu. Cách đình làng khoảng 2km về hướng bắc là di chỉ thành cổ là một dải lũy xếp bằng đá cao gần 2m bao bọc một quả đồi bên suối Nậm Thin. Đền Trung Đô đã được Nhà nước trao bằng Di tích lịch sử Quốc gia vào năm 2010".
Ông Ngô Văn Huân (Cán bộ Phòng Văn hoá - Thông tin huyện Bắc Hà)

Bí ẩn đá lạ trong ngôi đền cổ Thành nhà Hồ

Xung quanh di sản văn hóa thế giới thành nhà Hồ ẩn chứa nhiều bí ẩn chưa có lời giải đáp. Ngoài vấn đề thời gian, kỹ thuật xây thành, đôi rồng đá bị chặt đầu, hay chuyện ngôi mộ táng khổng lồ ở đàn tế Nam Giao, còn có một huyền tích lịch sử về nàng Bình Khương tuẫn tiết kêu oan cho chồng và ngôi đền cổ thờ phiến đá kỳ lạ.

Ngôi đền cổ thờ nàng Bình Khương nằm sát chân tường thành phía đông thành nhà Hồ. Ảnh: Lê Hoàng.
 Ngôi đền cổ thờ nàng Bình Khương nằm sát chân tường thành phía đông thành nhà Hồ. Ảnh: Lê Hoàng.

Xung quanh di sản văn hóa thế giới thành nhà Hồ ẩn chứa nhiều bí ẩn chưa có lời giải đáp. Ngoài vấn đề thời gian, kỹ thuật xây thành, đôi rồng đá bị chặt đầu, hay chuyện ngôi mộ táng khổng lồ ở đàn tế Nam Giao, còn có một huyền tích lịch sử về nàng Bình Khương tuẫn tiết kêu oan cho chồng và ngôi đền cổ thờ phiến đá kỳ lạ.

Đền thờ nàng Bình Khương nằm ở phía đông thành nhà Hồ, thuộc làng Đông Môn, xã Vĩnh Long (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa). Huyền tích kể rằng, cuối thế kỷ 14, việc dời đô vô cùng gấp gáp bởi giặc Minh đang lăm le vượt qua ải bắc, những ngọn hỏa hiệu vùng biên ải Cao Bằng, Lạng Sơn mấy lần đã báo khói, báo cháy khiến vua quan nhà Trần lo sợ. Năm 1397, để nhanh chóng dời đô từ Thăng Long về đất An Tôn, Hồ Quý Ly đã gấp rút sai quân lính ngày đêm đào thành, đắp lũy.

Việc khai thác, vận chuyển những phiến đá nặng hàng chục tấn rất gian khổ, nhưng việc lắp ghép bức tường sừng sững cao đến 3-4 m mà không có máy móc hiện đại hay vôi vữa đòi hỏi kỹ thuật điêu luyện. Trong số người tham gia việc đốc công có chàng Cống sinh Trần Công Sĩ. Viên quan này được Hồ Quý Ly giao nhiệm vụ trực tiếp giám sát, đốc thúc thi công bức tường thành phía Đông. Quan quân ngày đêm làm việc không nghỉ để đảm bảo tiến độ, trong 3 tháng phải hoàn thành “kinh đô bất khả chiến bại”.

Trên phiến đá nàng Bình Khương đập đầu kêu oan cho chồng còn hằn nguyên vết lõm sâu in hình đầu người và hai bàn tay. Ảnh: Lê Hoàng
 Trên phiến đá nàng Bình Khương đập đầu kêu oan cho chồng còn hằn nguyên vết lõm sâu in hình đầu người và hai bàn tay. Ảnh: Lê Hoàng

Tiến độ thi công gấp rút nghiêm ngặt là thế, nhưng đoạn thành phía Đông do Trần Công Sỹ phụ trách cứ xây gần xong lại đổ sập, không ai rõ nguyên nhân. Nghi ngờ Trần Công Sỹ có mưu làm phản, cố ý chậm trễ công việc xây thành, Hồ Quý Ly tức giận hạ lệnh cho quân lính đem vùi thân chàng vào ngay vị trí bức tường thành bị đổ để làm gương răn đe những kẻ mưu đồ dám chống thượng lệnh.

Vợ chàng là nàng Bình Khương nghe tin chồng bị xử tội chết oan nên rất uất hận. Đau khổ tột cùng, nàng lao tới bức tường đá, lấy hết sức để xô đổ những tảng đá xây thành mong nhìn thấy xác người chồng vắn số. Kiệt sức nhưng bức tường thành vẫn không hề rung chuyển, Bình Khương quyết định đập đầu vào đá để được chết theo chồng. Kỳ lạ phiến đá nơi nàng tuẫn tiết lõm xuống một hố rất sâu như hình đầu người và hai vệt bàn tay cào xé.

Cảm thương trước người phụ nữ tiết nghĩa, người dân địa phương đã lập đền thờ nàng ngay sát bức tường phía cửa đông thành An Tôn. Phiến đá in dấu đầu người và hai bàn tay được đưa vào đền thờ. Cụ Phạm Đức Vinh (90 tuổi), người dân địa phương cho hay, chuyện nàng Bình Khương vỗ đá kêu oan cho chồng có từ xa xưa, được người dân trong vùng lưu truyền từ đời này sang đời khác. "Nếu tới thành nhà Hồ, hỏi về nàng Bình Khương thì đứa trẻ mới lớn cũng có thể kể lại vanh vách sự tích này", cụ Vinh tự hào nói.

Tấm bia đá người xưa khắc ghi công trạng Cống sinh Trần Công Sĩ và tấm gương thủy chung tiết hạnh của nàng Bình Khương. Ảnh: Lê Hoàng
 Tấm bia đá người xưa khắc ghi công trạng Cống sinh Trần Công Sĩ và tấm gương thủy chung tiết hạnh của nàng Bình Khương. Ảnh: Lê Hoàng

Theo sử sách, đến đời vua Đồng Khánh (triều Nguyễn), nghe đồn về dấu tay và đầu nàng Bình Khương qua 500 năm vẫn còn in rõ trên phiến đá nên khách xa gần tìm về đây rất đông. Viên hào lý trong làng Đông Môn lo ngại tiếng đồn ngày càng vang xa sẽ gây nhiều phiền nhiễu nên thuê thợ về đục cả phiến đá đem chôn. Nhưng đục xong, nhóm thợ mắc bệnh lạ rồi qua đời.

Bấy giờ tri phủ Đoàn Thước nghe tin lo sợ mới sai lính tìm và cho đào phiến đá đó lên, lắp đúng vào chỗ cũ, đồng thời sai thợ khắc dòng chữ “Trần triều Cống Sinh - Bình Khương nương, phu nhân tri thạch” (đại ý tảng đá này ghi dấu vết của nàng Bình Khương, là nương tử của ông Cống sinh, triều nhà Trần). Tri phủ cũng cho dựng thêm một phiến đá ở chân thành, nơi xưa kia Cống Sinh bị chôn lấp, trên đó cũng khắc dòng chữ “Trần triều Cống Sinh - Bình Khương phu quân chi biếm” (nghĩa là nơi chôn lấp chồng bà Bình Khương, là Cống Sinh triều Trần).

Năm 1903, tổng đốc Vương Duy Trinh đã làm sớ tâu lên nhà vua ban sắc phong cho nàng Bình Khương 4 chữ: “Tiết liệu khả phong” và giao cho 3 làng Đông Môn, Xuân Giai, Tây Giai xây dựng một ngôi đền kiên cố.

Hàng trăm năm nay, ngôi đền cổ đã trở thành nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân địa phương và du khách gần xa. Ảnh: Lê Hoàng.
 Hàng trăm năm nay, ngôi đền cổ đã trở thành nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân địa phương và du khách gần xa. Ảnh: Lê Hoàng. 

Hiện đền thờ nàng Bình Khương tọa lạc ở phía đông của thành, chính nơi nàng từng vật vã khóc than kêu oan cho chồng. Phía sau ngôi đền cổ là mộ Trần Công Sỹ. Bên phải đền có một cái ao nhỏ, dù nắng to hay hạn hán thế nào, ao cũng không bao giờ cạn nước. Trong đền còn có ba tấm bia đá cổ khắc chữ Hán ca ngợi công đức và tấm gương tiết liệt của nàng Bình Khương.

Ông Nguyễn Xuân Toán, Phó giám đốc Trung tâm Bảo tồn di sản thành nhà Hồ cho biết, hàng trăm năm nay, ngôi đền cổ đã trở thành nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân địa phương và du khách gần xa. “Tin vào sự linh thiêng của ngôi đền nên cứ vào dịp mùng một, ngày rằm hay dịp lễ tết đầu xuân, người dân địa phương đều đến đây dâng hương để cầu mong sức khỏe, bình an, may mắn cho gia đình...”, ông Toán nói.

TIN BÀI LIÊN QUAN



BÀI ĐANG ĐỌC NHIỀU


10 ngôi đền hoành tráng nhất thế giới

(Kiến Thức) - Đó là những ngôi đền cổ kính được xây dựng với chi phí từ vài chục triệu USD cho đến hàng tỷ USD, được dát vàng, đính kim cương, hồng ngọc…

Chùa Shwedagon, Yangon, Myanmar: 2,4 tỷ USD. Theo truyền thuyết, chùa Shwedagon được xây dựng vào khoảng 2.500 năm trước nhưng các nhà khảo cổ lại cho rằng công trình này được dựng lên từ giữa thế kỷ VI - thế kỷ X sau công nguyên. Điểm đặc biệt của ngôi chùa là công trình được dát vàng. Vào thế kỷ XV, nữ hoàng của dân tộc Môn đã quyên tặng khối lượng vàng bằng trọng lượng cơ thể mình cho ngôi chùa. Truyền thống này vẫn tiếp tục cho đến ngày nay. Người hành hương thường tiết kiệm tiền trong nhiều năm để mua những gói lá vàng nhỏ để dát vào các bức tường của ngôi chùa. Dường như dát vàng là không đủ, các chóp của ngôi tháp và mái vòm ở đây còn được bao phủ với hơn 5.000 viên kim cương, 2.000 hồng ngọc và một viên kim cương 76 carat ở trên đỉnh.
Chùa Shwedagon, Yangon, Myanmar: 2,4 tỷ USD. Theo truyền thuyết, chùa Shwedagon được xây dựng vào khoảng 2.500 năm trước nhưng các nhà khảo cổ lại cho rằng công trình này được dựng lên từ giữa thế kỷ VI - thế kỷ X sau công nguyên. Điểm đặc biệt của ngôi chùa là công trình được dát vàng. Vào thế kỷ XV, nữ hoàng của dân tộc Môn đã quyên tặng khối lượng vàng bằng trọng lượng cơ thể mình cho ngôi chùa. Truyền thống này vẫn tiếp tục cho đến ngày nay. Người hành hương thường tiết kiệm tiền trong nhiều năm để mua những gói lá vàng nhỏ để dát vào các bức tường của ngôi chùa. Dường như dát vàng là không đủ, các chóp của ngôi tháp và mái vòm ở đây còn được bao phủ với hơn 5.000 viên kim cương, 2.000 hồng ngọc và một viên kim cương 76 carat ở trên đỉnh. 

Đọc nhiều nhất

Tin mới