Bi kịch xé lòng của bà hoàng nổi tiếng nhất nhà Trần

(Kiến Thức) - Chỉ vì đặt nhầm niềm tin và tình thương, Hiến Từ Thái hậu đã chuốc lấy họa sát thân đầy đau đớn, thậm chí khiến vương triều một phen náo động. 

Bi kịch xé lòng của bà hoàng nổi tiếng nhất nhà Trần
Xuất thân trong hoàng tộc Trần, sau trở thành Hoàng Hậu rồi Thái Hậu nhà Trần, Hiến Từ Thái Hậu nổi tiếng là người có nhân cách và phẩm giá cao đẹp, đạo đức sáng ngời, được sử sách không ngớt ngợi khen. Tuy nhiên, chỉ vì đặt niềm tin và tình thương sai địa chỉ, vị Thái Hậu này chẳng những chuốc lấy họa sát thân đau đớn mà còn khiến đất nước và vương triều một phen náo động…
“Nữ Trung Nghiêu Thuấn” và chút tình riêng
Hiến Từ Thái Hậu (?-1369) tên là Huy Thánh, là con gái trưởng của Đại Vương Trần Quốc Chẩn, cháu nội của Hoàng Đế Trần Nhân Tông. Khi đến tuổi cập kê, Huy Thánh được Hoàng Đế Trần Minh Tông (1314 - 1329) đón vào cung và phong làm Lệ Thánh Hoàng Hậu. Xét về quan hệ thân tộc, Trần Minh Tông là con trai của Trần Anh Tông (1293 - 1314) mà Trần Anh Tông là anh ruột của Trần Quốc Chẩn nên giữa Trần Minh Tông với Huy Thánh có mối quan hệ anh em con chú con bác.
Lệ Thánh Hoàng Hậu là người hiền thục, có đạo đức nhưng muộn đường con cái. Ở ngôi Hoàng Hậu đã 5 năm mà bà chưa sinh nở gì. Theo điển lệ nhà Trần, chỉ con trai của Hoàng Hậu mới đủ tư cách kế thừa ngai vàng. Trong khi đó, các phi tần khác có người đã sinh được Hoàng Tử. Điều này khiến nội bộ các quan chia thành hai phe khác nhau. Một phe do cha ruột Lệ Thánh là Trần Quốc Chẩn đứng đầu, kiên trì ý kiến đợi Hoàng Hậu sinh Hoàng Tử mới lập Thái Tử. Phe còn lại do Văn Hiến Hầu cầm đầu có sự giúp đỡ của Anh Tư Nguyên Phi thì chủ trương lập Hoàng Tử Trần Vượng (con của Anh Tư).
Cuối cùng, bằng thủ đoạn vu cáo Trần Quốc Chẩn mưu phản, Văn Hiến Hầu và Anh Tư đã chiến thắng. Trần Quốc Chẩn bị bắt giam và bị bỏ đói đến chết. Trần Vượng được phong Hoàng Thái Tử và sau này là Hoàng Đế Trần Hiến Tông (1329-1341). Cũng vì việc này, Lệ Thánh mang trong mình một nỗi buồn u uất mãi không thôi.
Bi kich xe long cua ba hoang noi tieng nhat nha Tran
 Hiến Từ Thái Hậu nổi tiếng là người có nhân cách và phẩm giá cao đẹp, 
đạo đức sáng ngời. Tranh minh họa.

Năm 1329, khi Trần Minh Tông nhường ngôi cho Thái Tử Trần Vượng, Lệ Thánh được Tân Hoàng Đế tôn làm Hiến Từ Thái Thượng Thái Hậu. Vài năm sau, bà lần lượt sinh hạ một Công Chúa và hai Hoàng Tử. Đó là Công Chúa Thiên Ninh và Hoàng Tử Trần Nguyên Dục, Trần Hạo. Tuy đã sinh đích trưởng nhưng Hiến Từ Thái Hậu không muốn vì chuyện giành lại ngôi vị cho con mà gây ra một cuộc biến động nơi cung đình. Ngược lại, trong mọi mối quan hệ, bà đều biết cách cư xử thấu đạt. “Người bấy giờ khen Thái Hậu là trọn đạo làm mẹ, tuy là phận con đích, con thứ không giống nhau mà lòng nhân từ không đối với con nào khác con nào, để cho ân nghĩa của vua tôi, cha con, anh em không chút thiếu sót, từ đời cận cổ đến nay chưa có người nào được như thế”. (Đại Việt sử kí toàn thư). Và, nếu dưới thời nhà Tống bên Trung Quốc, Tống Anh Tông đã dùng 4 chữ “Nữ trung Nghiêu Thuấn” (Vua Nghiêu, vua Thuấn trong giới nữ) để khen Cao Hoàng Hậu là người nhân đức, thì Hiến Từ Thái Hậu nhà Trần cũng xứng đáng với lời ngợi khen đó.

Lại nói về hai con trai của Hiến Từ thì Nguyên Dục tuy là phận con trưởng nhưng tư chất tầm thường, ham chơi từ nhỏ đã thành tính. Còn Hoàng Tử Hạo là người thông minh ham học nên được Thượng Hoàng Minh Tông rất thương yêu. Nhưng Hiến Từ có phần thiên về Nguyên Dục hơn. Ở đây, ngoài tình thương còn có nỗi lo lắng và trách nhiệm của người mẹ đối với đứa con không có gì nổi bật của mình.

Năm 1341, Trần Hiến Tông băng hà khi chưa có con. Thượng Hoàng Minh Tông quyết định đưa một vị Hoàng Tử khác lên ngôi. Hoàng Hậu đã có con trai nên người kế vị chỉ có thể là Nguyên Dục hoặc Trần Hạo. Suy tính kĩ càng, Minh Tông đã chọn Trần Hạo, dù lúc ấy mới 5 tuổi, chứ không lập Nguyên Dục bởi Nguyên Dục “là người phóng đãng quá” (Đại Việt sử kí toàn thư). Bản thân Nguyên Dục cũng không đòi hỏi gì mà bằng lòng với tước phong Cung Túc Vương đến hết cuộc đời. Điều này càng khiến Thái Hậu Hiến Từ thương yêu Nguyên Dục hơn.

Năm 1364, Nguyên Dục mất khi mới ngoài 30 tuổi. Nguyên Dục chỉ có một đứa con là Nhật Lễ nên Hiến Từ đã chuyển hết tình thương yêu sang cho Nhật Lễ. Trong triều lúc ấy có những lời bàn tán không hay về Nhật Lễ, cho rằng Nhật Lễ không phải là con ruột của Cung Túc Vương Nguyên Dục. Hiến Từ không màng đến những tin đồn ấy, vẫn hết lòng săn sóc đứa cháu sớm mất cha.

Một tay đưa cháu lên ngôi

Ngày 25 tháng 5 năm Kỉ Dậu (1369), Trần Dụ Tông (tức là Trần Hạo) băng hà. Ông ở ngôi 28 năm (1341 - 1369) nhưng không có con nối dõi. Lúc sinh thời, ông đã nhận thấy tình cảm đặc biệt của Thái Hậu dành cho cha con Cung Túc Vương. Trong thâm tâm, ông cũng có phần ưu ái đứa cháu Nhật Lễ bởi ông không có con và dẫu sao, con của người anh cùng cha cùng mẹ cũng gần gũi hơn các huynh đệ cùng cha khác mẹ khác. Vì thế, trước lúc lâm chung, Dụ Tông đã xuống chiếu cho Nhật Lễ vào nối đại thống, tức kế thừa ngai vị Hoàng Đế. Hành động này của Trần Dụ Tông dẫu rất chủ quan nhưng cũng có phần hợp lí vì đã kịp chỉ định người thừa kế, giúp hoàng tộc Trần tránh khỏi một cuộc tương tàn tranh giành ngôi báu.

Di huấn của Hoàng Đế đương nhiên không ai dám cãi. Nhưng nó có được thực hiện hay không thì vị Hoàng Đế đã nhắm mắt xuôi tay không thể nào biết được. Các triều thần ít nhiều đều nghe lời đồn đại rằng Nhật Lễ không phải huyết thống họ Trần nhưng họ không có chứng cứ để xác nhận hay bác bỏ điều đó. Bởi vậy, họ rất băn khoăn, chưa biết phải xử trí thế nào. Trong số họ, lại có những người muốn tôn lập Cung Định Vương Trần Phủ (con thứ ba của Trần Minh Tông, anh trai Trần Dụ Tông) nhưng họ cũng băn khoăn vì làm thế là trái với di chiếu. Việc lên ngôi của Nhật Lễ do đó cũng bị dùng dằng, trì hoãn.

Lúc bấy giờ, người có tiếng nói cao nhất trong triều đình và hoàng tộc là Thái Hậu Hiến Từ. Theo điển lệ, tôn lập người kế vị là bổn phận của các đại thần, hậu cung không được can dự. Nhưng đã gần 20 ngày trôi qua kể từ khi Dụ Tông mất mà Hiến Từ chưa thấy cháu mình đăng cơ. Sai người thăm dò, bà mới hay sự khó xử của các quan. Không cần suy tính nhiều, vị Thái Hậu biết mình phải làm gì vào lúc này. Bất chấp điển lệ, ngày 15 tháng 6 năm ấy, bà sai người đón Nhật Lễ lên ngôi. Trước mặt bá quan, để xua tan nỗi nghi ngờ của họ, bà đã lớn tiếng khẳng định:

“Dục là con đích trưởng không được làm vua, vả lại mất sớm, nay Nhật Lễ không phải là con của Dục ư?”.

Trước sự quả quyết của Thái Hậu, các quan không dám có ý kiến gì thêm. Họ đành chấp nhận tôn phò Nhật Lễ. Nhật Lễ trở thành Hoàng Đế mới của nhà Trần với niên hiệu Đại Định. Về phần Hiến Từ, bà được Nhật Lễ tôn phong làm Hiến Từ Tuyên Thánh Thái Hoàng Thái Hậu, đương nhiên vẫn là chủ nhân tối cao của hậu cung.

Hối hận muộn màng, thân vong nước loạn

Đã ngồi yên trên chiếc ghế Hoàng Đế, Nhật Lễ không muốn phải nghe thêm các lời đồn về mình nữa. Nhật Lễ phải xác minh gốc gác của mình. Qua nhiều lần hỏi han thân mẫu, Nhật Lễ đã biết tất cả.

Hóa ra, Nhật Lễ đích thực không phải con cháu nhà Trần. Cha của Nhật Lễ tên là Dương Khương, vốn là một người phường chèo nổi tiếng trong kinh thành. Còn mẹ của Nhật Lễ cũng là một đào hát nức tiếng xinh đẹp hát hay. Trong một lần xem hát, Cung Túc Vương Nguyên Dục không cầm lòng nổi trước sắc đẹp của cô đào, đã bức ép cô phải làm vợ mình. Trần Nguyên Dục không biết rằng khi ấy, cô đào hát đang mang giọt máu của Dương Khương. Khi đứa trẻ sinh ra, Nguyên Dục nhận là của mình và đặt tên là Nhật Lễ.

Biết rõ thân thế của mình, Nhật Lễ không khỏi thất vọng. Từ đó trở đi, Nhật Lễ chỉ “rượu chè hoang dâm, hàng ngày chỉ vui chơi, thích chơi các trò, muốn đổi lại họ là Dương, người tôn thất và các quan đều ngã lòng” (Đại Việt sử kí toàn thư).

Chuyện đến tai Hiến Từ Thái Hậu. Cuối cùng bà đã biết được mọi sự thật. Đứa cháu Nhật Lễ bà hằng thương yêu rốt cuộc là người ngoại tộc. Bà càng không ngờ Nhật Lễ lại dám cả gan muốn bỏ họ Trần mà khôi phục họ Dương. Cơ nghiệp nhà Trần vì bà có nguy cơ sang tay người khác. Hiến Từ cảm thấy vô cùng hối hận vì đã trao niềm tin sai địa chỉ. Một tay bà đưa Nhật Lễ lên, nhưng để kéo Nhật Lễ xuống là điều rất khó. Bởi vậy, bà ngày đêm lo lắng không yên.

Hiến Từ không biết rằng, nhất cử nhất động của bà, Dương Nhật Lễ đều nắm rõ. Hắn đang toan tính thay triều đổi họ thì sự phản tỉnh của Hiến Từ càng khiến hắn xem bà là đối tượng cần phải loại trừ. Hắn phải ra tay trước Hiến Từ một bước nhằm loại bỏ rào cản nguy hiểm, tiến tới khống chế hoàn toàn triều đình nhà Trần.

Ngày 14 tháng 12 năm Kỉ Dậu (1369), tức 6 tháng sau ngày lên ngôi, Dương Nhật Lễ sai người ngầm hạ độc giết chết Hiến Từ, rồi phao lên rằng bà qua đời vì bạo bệnh. Bậc “nữ trung Nghiêu Thuấn” của triều Trần không thể ngờ cuộc đời mình lại kết thúc tức tưởi như vậy.

Bi kich xe long cua ba hoang noi tieng nhat nha Tran-Hinh-2
 Tượng vũ nữ thời Trần (Khắc gỗ, chùa Thái Lạc – Hưng Yên, thế kỉ XIII-XIV). 
Bi kich xe long cua ba hoang noi tieng nhat nha Tran-Hinh-3
 Nhạc công thời Trần (Khắc gỗ, chùa Thái Lạc – Hưng Yên, thế kỉ XIII-XIV). 

Sau khi ám hại Hiến Từ, Dương Nhật Lễ gấp rút triển khai việc thay đổi triều đại. Hoàng tộc họ Trần phản ứng vụng về bằng cách để cho 18 người lẻn vào cung tìm cách hạ thủ Dương Nhật Lễ. Chuyện không thành nhưng càng tạo thêm cớ cho Dương Nhật Lễ tiêu diệt họ Trần. Toàn bộ triều đình nhà Trần chìm trong bầu không khí tang thương. Những người còn lại trong tôn thất tìm cách chạy khỏi kinh thành, tập hợp lực lượng, chờ ngày báo thù. Đất nước khi ấy sắp sửa rơi vào cuộc chiến tương tàn giữa hai phe họ Trần và họ Dương.

Vài tháng sau khi Hiến Từ bị giết chết, phe họ Trần đã giành chiến thắng, lật đổ Dương Nhật Lễ và khôi phục lại cơ nghiệp nhà Trần. Hiến Từ ở nơi chín suối, nếu có linh thiêng, chắc hẳn cũng sẽ thấy thanh thản phần nào.

Bái phục công chúa dẹp loạn cứu triều Trần

Bái phục công chúa dẹp loạn cứu triều Trần
Là một triều đại lẫy lừng trong lịch sử Việt Nam với những chiến công oanh liệt chống giặc ngoại xâm và nhiều thành tựu trong kiến thiết đất nước trải suốt 175 năm cầm quyền, tuy nhiên ít người biết rằng, nếu không có sự cương quyết của một nàng công chúa thì triều đại với hào khí Đông A này sẽ chấm dứt vai trò của mình trên vũ đài chính trị sớm hơn tới 30 năm.
Một quyết định sai lầm khiến xã tắc ngả nghiêng

Ngày 25 tháng 5 năm Kỉ Dậu (1369), Trần Dụ Tông băng hà sau 28 năm ở ngôi vua (1341 – 1369), thọ 33 tuổi, vì không có con nên trước khi mất đã “xuống chiếu đón Nhật Lễ vào nối đại thống”, trên danh nghĩa Nhật Lễ là cháu họ của vua.

Ngày 14 tháng 12 năm Kỉ Dậu (1369), Nhật Lễ nghe nói Hoàng thái hậu Hiển Từ thường than thở, hối hận vì đã đưa mình lên ngôi, bèn sai người đầu độc giết chết. Từ đó Nhật Lễ “ngày ngày rượu chè, dâm dật, trăm sự chơi bời, hay bày ra các trò tạp kỹ, thân cận suồng sã với lũ tiểu nhân, muốn đổi lại họ là Dương. Người tôn thất và các quan đều thất vọng” (Khâm định Việt sử thông giám cương mục).

Tháng 9 năm Canh Tuất (1370), tôn thất họ Trần có nhiều người bất mãn đã bàn mưu diệt trừ, khiến ông vua này phải trốn dưới gầm cầu mới thoát được rồi ra tay trả thù: “Mùa thu, tháng 9, ngày 20, thái tể Nguyên Trác cùng con là Nguyên Tiết giết Nhật Lễ không được, bị giết.

Đêm hôm ấy, cha con Nguyên Trác và 2 người con của công chúa Thiên Ninh đem người tôn thất vào thành định giết Nhật lễ. Nhật Lễ trèo qua tường, nấp dưới cầu mới. Mọi người lùng không thấy, giải tán ra về. Khi trời sắp sáng, Nhật Lễ vào cung, chia người đi bắt 18 người chủ mưu. Bọn Nguyên Trác đều bị hại” (Đại Việt sử ký toàn thư).

Mưu kế vụng về, sơ hở của các tôn thất nhà Trần khiến việc diệt trừ Nhật Lễ không thành, lại mang họa đến tính mạng của nhiều người.
Khi công chúa mất, người dân đã lập miếu thờ phụng, đến nay ngôi miếu vẫn còn, được gọi là miếu Hoàng Bà; bài vị và văn tế tôn gọi là Lượng Quốc Thiên Ninh thái trưởng công chúa thụy viết Huệ Bà. Ảnh minh họa
Khi công chúa mất, người dân đã lập miếu thờ phụng, đến nay ngôi miếu vẫn còn, được gọi là miếu Hoàng Bà; bài vị và văn tế tôn gọi là Lượng Quốc Thiên Ninh thái trưởng công chúa thụy viết Huệ Bà. Ảnh minh họa.
Cung Định vương Trần Phủ dù là bố vợ của Nhật Lễ nhưng vì sợ hãi đã bỏ trốn lên vùng Đà Giang, thế nhưng một người không có tính quyết đoán lại vốn không có ý muốn làm vua mà chỉ thích sống an nhàn cuối cùng do sự đưa đẩy của thời cuộc đã được đưa lên ngôi, công lao lớn nhất trong việc này phải kể đến hai người em của ông là Công chúa Thiên Ninh và Cung Tuyên vương Trần Kính.

Công chúa ra tay dẹp loạn cứu vương triều
Sau sự kiện một số tôn thất triều Trần mưu lật đổ Nhật Lễ bị thất bại, những người còn lại kẻ thì yên lặng không dám phản kháng, chỉ lo đến thân; người thì kinh sợ mà bỏ trốn, sống ẩn dật; trong triều thì quan lại nhu nhược để mặc cho lộng hành tàn bạo.

Trước tình cảnh đó, riêng có mình công chúa Thiên Ninh lấy làm tức giận, phần vì căm phẫn tội ác của Nhật Lễ, phần vì muốn báo thù cho 2 con và nhất là muốn giành lại ngôi vị chính thống cho họ Trần, do đó đã âm thầm chuẩn bị lực lượng để ra tay.

Công chúa Thiên Ninh còn gọi là Bạch Tha hoặc Ngọc Tha, con gái của Trần Minh Tông, thân mẫu là Hiến Từ hoàng hậu (còn có hiệu là Lệ Thánh), những anh chị em cùng mẹ của Thiên Ninh gồm có Cung Túc vương Nguyên Dục, Trần Hạo (Trần Dụ Tông), Cung Tĩnh vương Nguyên Trác.

Tuy là phận nữ nhi nhưng là người gan dạ, quả cảm và cương quyết; sau khi hạ giá lấy chồng, công chúa được phong thực ấp ở vùng đất ven sông Luộc với hàng nghìn mẫu ruộng, bà đã chiêu tập dân cư lập ra ấp Bồ Ngọc và theo chế độ của triều Trần, các hoàng thân quốc thích đều được phép có lực lượng vũ trang riêng, vì thế công chúa Thiên Ninh cũng xây dựng đội quân hương dũng của mình, vừa sản xuất, vừa tập luyện võ bị phòng khi dùng đến lúc có biến.

Sau khi suy tính kế sách diệt trừ Nhật Lễ, Công chúa Thiên Ninh thấy chỉ có người anh cùng cha khác mẹ là Cung Định vương Trần Phủ là đủ uy tín đứng ra hô hào hoàng thân, quan lại cùng nhau hợp sức lật đổ hôn quân Nhật Lễ.

Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” viết: “Cung Định vương có con gái là Hoàng hậu của Nhật Lễ, sợ tai họa đến mình nên tránh ra ở trấn Đà Giang (tức Gia Hưng) lánh nạn, ngầm hẹn với các em là Cung Tuyên vương Kính, Chương Túc Quốc thượng hầu Nguyên Đán và Thiên Ninh Công chúa Ngọc Tha họp nhau ở sông Đại Lại (tức chi lưu sông Mã, Thanh Hóa - PV) phủ Thanh Hóa để dấy quân”.

Tuy nhiên, theo sách “Đại Việt sử ký tiền biên” thì chính Công chúa Thiên Ninh mới là người khởi xướng, khích lệ anh trai mình hành động: “Trước kia, Cung Định vương vốn không có ý lấy nước, công chúa Thiên Ninh mới bảo rằng:

- Thiên hạ là thiên hạ của tổ tông mình, sao lại vứt bỏ nước cho kẻ khác? Anh phải đi đi, em sẽ đem bọn gia nô dẹp nó cho!.

Quan Chi hậu nội nhân phó là Nguyễn Nhiên biết là Nhật Lễ muốn hại Cung Định vương, cũng khuyên vương nên sớm thấy cơ mà tránh. Lúc đó, ý Cung Định vương mới quyết, khi đi mới làm bài thơ gửi cho em là Kính. Thơ rằng:

Vị cực sàm thân tiện thứ quan,
Trắc thân, độ lĩnh, nhập sơn man.
Thất lăng hồi thủ thiên hàng lệ,
Vạn lý môn tâm lưỡng mấn ban,
Khử Vũ đồ tồn Đường xã tắc,
An Lưu phục để Hán y quan.
Minh Tông sự nghiệm quân tu ký,
Khôi phục thần kinh chỉ nhật hoàn.


Nghĩa là:

Ngôi cả gièm nhiều mới bỏ quan,
Né thân, vượt núi, tới sơn man,
Bảy lăng ngoảnh lại châu tuôn chảy,
Muôn dặm đau lòng, tóc bạc lan.
Diệt Vũ , giữ yên Đường xã tắc,
Phò Lưu lại thấy Hán y quan.
Minh Tông sự nghiệp em nên nhớ,
Thu phục thần kinh sắp khải hoàn.


Bài thơ nói lên ý chí bản thân, sự đau lòng thấy cảnh vương triều suy vi, nêu tấm gương diệt trừ phe cánh họ Vũ (Võ) Tắc Thiên để khôi phục nhà Đường cũng như việc dẹp yên nội loạn họ Lữ phù giúp họ Lưu nhà Hán, qua đó bày tỏ niềm tin tưởng về ngày thu phục lại kinh đô Thăng Long.

Cung Tuyên vương Trần Kính đọc thơ xong mới đưa cho các quan tướng thuộc tôn thất xem, coi đó như lời kêu gọi phục quốc. Công chúa Thiên Ninh nhận được mật thư cũng nhanh chóng tập trung binh lính cùng lương thảo, tiền bạc kéo vào Thanh Hóa hội quân để cùng tiến về kinh sư hỏi tội Nhật Lễ.

Công chúa cùng anh trai lại ngầm liên kết với Thiếu úy Ngô Lang là người đang được Nhật Lễ tin dùng để phối hợp hành động, nên mỗi khi Nhật Lễ sai quân tướng đi đánh bắt các tôn thất họ Trần thì Ngô Lang đều bí mật bảo họ đừng về nữa mà ra nhập với phe phục quốc.

“Rất nhiều lần các cánh quân Nam, Bắc đi đánh, đều không một ai trở về, Ngô Lang cũng xin đi, Nhật Lễ không cho” (Đại Việt sử ký toàn thư). Nhờ đó mà uy lực của tôn thất họ Trần ngày một lớn mạnh, tháng 11 năm Canh Tuất (1370), Cung Định vương Trần Phủ cùng Cung Tuyên vương Trần Kính, công chúa Thiên Ninh đem đại quân về Thăng Long.

Ngày 13 khi quan quân đến phủ Kiến Hưng (nay thuộc Nam Định) đã ban bố lệnh phế truất Nhật Lễ xuống làm Hôn Đức công rồi cùng nhau suy tôn Cung Định vương Trần Phủ lên ngôi hoàng đế với tôn hiệu là Thể khiên kiến cực thuần hiếu hoàng đế, đặt niên hiệu là Thiệu Khánh, đại xá thiên hạ và xưng là Nghĩa Hoàng (sử gọi là Trần Nghệ Tông). Sau đó Trần Nghệ Tông làm lễ tế cáo mà nói rằng:

- Sự việc ngày hôm nay không phải ý của tôi nghĩ tới, vì việc của xã tắc không thể tránh được, trong lòng lo thẹn. Xin nhận ngôi tôn vinh để đền đáp chút chí nguyện sẵn có.

Sách “Đại Việt sử ký tiền biên” chép rằng: “Trước đây, vua vì thấy Nhật Lễ vô đạo, tránh nạn mà chạy ra. Ngô Lang ngầm xin làm nội ứng. Tôn thất, bách quan lần lượt ra khỏi thành theo vua, khuyên vua sớm trở về nước để thanh trừ loạn trong nước, vua nghẹn ngào cảm tạ. Mọi người đều náo nức cầu xin định ngày lên đường. Khi quân tiến, tiếng hô xa gần vang trời”.

Lúc quân của Trần Nghệ Tông đến bến Đông Bộ Đầu, áp sát Thăng Long thì Thái úy Ngô Lang dùng lời lẽ hơn thiệt khuyên bảo Nhật Lễ viết thư nhận tội, nhường ngôi rồi kéo ra hàng. Trần Nghệ Tông thấy tình cảnh con rể như thế mới ôm Nhật Lễ mà khóc lóc, an ủi nhưng vì các quân tướng quá căm giận nên mới đành sai bắt giam vào trong ngục.

Sau đó vì Nhật Lễ thù Ngô Lang, lừa ông vào ngục nói chuyện rồi giết chết nên Trần Nghệ Tông mới sai giết Nhật Lễ và con là Nhật Liễu cùng Trần Nhật Hạch là kẻ khuyên Nhật Lễ sát hại người tôn thất.

Tháng 2 năm Tân Hợi (1371) Trần Nghệ Tông cho mở tiệc lớn ở điện Thiên An khao thưởng theo thứ bậc, “dùng người hiền tài, chọn những trẻ con trai gái mồ côi của người tôn thất đưa hết về nuôi ở trong cung” những người có công lớn như Công chúa Thiên Ninh được phong làm Lượng Quốc thái Trưởng công chúa, chi hậu nội nhân Nguyễn Nhân thăng làm Tả tham ty chính sự…

Đặc biệt là sau đó không lâu, vào tháng 4 năm ấy, Trần Nghệ Tông lập em trai là Trần Kính làm Hoàng thái tử, làm tập sách “Hoàng Huấn” gồm 14 chương để ban cho, lại phong vợ cả của Hoàng thái tử làm Hoàng thái tử phi.

Chuyện một vị vua lập em làm Thái tử khá đặc biệt vì thường chỉ có lập con, lập cháu mà thôi. Lý do là bởi trong việc tôn ông làm minh chủ diệt trừ Nhật Lễ thì việc chỉ huy quân lính, tập hợp lực lượng, chuẩn bị lương thảo khí giới để phần lớn đều cho em ông là Trần Kính phụ trách cho nên Nghệ Tông đem ngôi nhường cho (Đại Việt sử ký toàn thư).

Về Công chúa Thiên Ninh, dù được phong làm Lượng Quốc thái Trưởng công chúa, nhưng nghĩ đến cảnh 2 con bị giết hại, bà không hào hứng gì với chức tước, vàng bạc nhung lụa mà xin về thái ấp của mình để vui với đồng ruộng.

Biết không ngăn được, Trần Nghệ Tông xét thấy công lao của bà và ý chí phục dựng lại cơ đồ giống như chuyện các trung thần thời Hán, Đường nên mới lấy địa danh có liên quan ở phương Bắc là Bồ, Bái để đặt cho trang ấp của công chúa vì thế tại thái ấp của Thiên Ninh có các trang Bái, trang Bồ, trang Ngọc Quế (nay thuộc xã Quỳnh Hoa, huyện Quỳnh Phụ, Thái Bình).

Để giúp đỡ người dân nghèo, công chúa ban phát tiền bạc cho họ mua nông cụ, trâu bò lấy sức kéo để sản xuất vì thế mà dân chúng khắc ghi, ơn nhớ mãi.

Khi công chúa mất, người dân đã lập miếu thờ phụng, đến nay ngôi miếu vẫn còn, được gọi là miếu Hoàng Bà; bài vị và văn tế tôn gọi là Lượng Quốc Thiên Ninh thái trưởng công chúa thụy viết Huệ Bà.

Hàng năm vào ngày 2, ngày 3 tháng 3 và ngày 4, ngày 5 tháng Chạp âm lịch, dân địa phương mở hội rước, làm cỗ cúng để tưởng nhớ đến công chúa đã khai hoang lập ấp cho các thế hệ bao đời được hưởng điền địa, tạo dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đồng thời cũng là người đã góp phần cứu một vương triều nổi tiếng trong lịch sử nước nhà kéo dài thêm thời gian tồn tại của mình, một điều hiếm có mà không phải ai cũng có thể làm được.
Theo Phunutoday
[links()]

Bí ẩn chuyện vua "không lập Hoàng hậu"

Chúng ta thường nhầm tưởng rằng triều Nguyễn có lệ “tứ bất” trong đó có không lập Hoàng hậu, tuy nhiên đấy chẳng phải là thông lệ xuất hiện từ thời Nguyễn.

Bí ẩn chuyện vua "không lập Hoàng hậu"
Lệ này cũng chưa điển chế hoá, mà trước đó lệ này đã xuất hiện vào giai đoạn đầu của vương triều Hậu Lê. Nguyên nhân có việc bất lập này đến nay vẫn chưa được làm rõ.

Tình một đêm của Thái thượng hoàng chưa từng làm vua

 "Cuộc tình một đêm" của Trần Thừa đã để lại hậu quả cho cô thôn nữ là một đứa con rơi tên Trần Bà Liệt. 

Tình một đêm của Thái thượng hoàng chưa từng làm vua
Trần Thừa (1184-1234) thường gọi là Trần Thái Tổ, là Thái thượng hoàng đầu tiên của nhà Trần và cũng là một trong hai Thái thượng hoàng chưa từng làm vua trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Ông là con cả của Trần Lý, anh ruột của Trần Tự Khánh và Linh từ quốc mẫu Trần Thị Dung, cha của vua Trần Thái Tông.
Khi Lý Huệ Tông qua đời, truyền ngôi cho con gái nhỏ là Lý Chiêu Hoàng, Thái sư Trần Thủ Độ lúc ấy nắm giữ hầu hết quyền bính trong tay. Độ mới nghĩ ngay đến việc truyền ngôi cho Trần Cảnh, con trai thứ của Trần Thừa, bèn thưa với Trần Thừa việc ấy.

Đọc nhiều nhất

Tin mới