6 loài động vật bị con người săn lùng đến tuyệt chủng

Sự tham lam vô độ của con người đã khiến những loài vật này biến mất vĩnh viễn khỏi trái đất.

6. Chim Dodo - Raphus cucullatus
6 loai dong vat bi con nguoi san lung den tuyet chung
 Ảnh: Encyclopædia Britannica, Inc./Christine McCabe
Những con chim Dodo có tên khoa học là Raphus cucullatus, chúng làm tổ trên mặt đất và không biết bay, từng sinh sống rất nhiều trên đảo Mauritius ở Ấn Độ Dương. Chúng lớn hơn gà tây, nặng khoảng 23 kg (khoảng 50 pound) và có bộ lông màu xanh xám và cái đầu to.
Các thủy thủ Bồ Đào Nha đã phát hiện ra chúng vào khoảng năm 1507, từ đó từng thế hệ thủy thủ đã nhanh chóng tiêu diệt quần thể Dodo như một nguồn thịt tươi cho các chuyến hành trình của họ. Việc đưa khỉ, lợn và chuột đến hòn đảo sau này đã gây ra thảm họa đối với loài chim yếu ớt này khi các loài động vật có vú ăn những quả trứng dễ bị tổn thương của chúng. Con chim Dodo cuối cùng đã bị giết vào năm 1681. Đáng buồn là có rất ít mô tả khoa học hoặc mẫu vật của chúng còn tồn tại trong bảo tàng. 
5. Bò biển Steller - Hydrodamalis gigas
6 loai dong vat bi con nguoi san lung den tuyet chung-Hinh-2
Bò biển Steller (Hydrodamalis gigas) đã tuyệt chủng từ thế kỷ 18. Ảnh: Encyclopædia Britannica, Inc. 
Được phát hiện vào năm 1741 bởi nhà tự nhiên học người Đức Georg W. Steller, bò biển Steller từng sinh sống ở các khu vực gần bờ của Quần đảo Komandor ở Biển Bering. Lớn hơn nhiều so với lợn biển và bò biển ngày nay, bò biển Steller đạt chiều dài 9–10 mét (hơn 30 feet) và nặng khoảng 10 tấn (22.000 pound).
Những loài động vật to lớn, ngoan ngoãn này nổi trên mặt nước ven biển. Điều này khiến chúng trở thành mục tiêu dễ dàng cho những kẻ săn hải cẩu người Nga, những kẻ nàycoi chúng như nguồn thịt trong những chuyến hành trình dài trên biển. Việc giết chóc liên tiếp khiến chúng bị tiêu diệt vào năm 1768, chưa đầy 30 năm sau khi được phát hiện lần đầu tiên. Không có mẫu vật được bảo quản tồn tại ngày nay.
4. Bồ câu viễn khách - Ectopistes migratorius
6 loai dong vat bi con nguoi san lung den tuyet chung-Hinh-3
 Chim bồ câu viễn khách (Ectopistes migratorius). Ảnh:The Birds of America, from Drawings Made in the United States, Vol. VII, by John James Audubon, 1844
Từng nổi tiếng với đàn di cư khổng lồ khiến bầu trời trở nên tối sầm trong nhiều ngày, chim bồ câu viễn khách bị săn lùng đến mức tuyệt chủng vào đầu những năm 1900. Hàng tỷ loài chim sống thành đàn này từng sinh sống ở miền đông Bắc Mỹ và có hình dáng tương tự như loài chim bồ câu tang.
Khi những người định cư Mỹ tiến về phía Tây, hàng triệu con chim bồ câu viễn khách bị giết thịt hàng năm để lấy thịt và vận chuyển bằng các toa xe lửa để bán ở các chợ thành phố. Những người thợ săn thường đột kích nơi làm tổ của chúng và tiêu diệt toàn bộ đàn chúng chỉ trong một mùa sinh sản. Từ năm 1870, sự suy giảm của loài này trở nên nhanh chóng. Một số nỗ lực đã được thực hiện để nhân giống các loài chim trong điều kiện nuôi nhốt nhưng không thành công. Con chim bồ câu viễn khách cuối cùng được biết đến, tên là Martha, chết vào ngày 1 tháng 9 năm 1914 tại Vườn thú Cincinnati ở Ohio.
3. Bò rừng Á-Âu - Bos primigenius primigenius
6 loai dong vat bi con nguoi san lung den tuyet chung-Hinh-4
Ảnh: AdstockRF 
Là một trong những tổ tiên của gia súc hiện đại, bò rừng Á-Âu là một loài bò rừng to lớn từng sinh sống khắp các thảo nguyên của Châu Âu, Siberia và Trung Á. Với chiều cao ngang vai 1,8 mét (6 feet) với cặp sừng to lớn cong về phía trước, bò rừng Á-Âu nổi tiếng với tính khí hung hãn và được chiến đấu để giải trí trong các đấu trường La Mã cổ đại.
Là một loài thú săn, bò rừng Á-Âu bị săn bắt quá mức và dần dần bị tuyệt chủng cục bộ ở nhiều khu vực trong phạm vi phân bố của chúng. Vào thế kỷ 13, số lượng loài đã giảm nhiều đến mức quyền săn bắt chúng chỉ dành cho giới quý tộc và các hộ gia đình hoàng gia ở Đông Âu. Vào năm 1564, những người quản lý chỉ ghi nhận được 38 con vật trong một cuộc khảo sát của hoàng gia. Con bò rừng Á-Âu cuối cùng được biết đến là một con cái, đã chết ở Ba Lan vào năm 1627 do nguyên nhân tự nhiên.
2. Chim Auk lớn - Pinguinus impennis
6 loai dong vat bi con nguoi san lung den tuyet chung-Hinh-5
Chim auk lớn (Pinguinus impennis). Ảnh:The Birds of America, từ Bản vẽ sản xuất tại Hoa Kỳ, Tập. VII, của John James Audubon, 1844 
Chim auk lớn là một loài chim biển không biết bay sinh sản thành đàn trên các hòn đảo đá ở Bắc Đại Tây Dương, cụ thể là St. Kilda, Quần đảo Faroe, Iceland và Đảo Funk ngoài khơi Newfoundland. Những con chim này dài khoảng 75 cm (30 inch) và có đôi cánh ngắn dùng để bơi dưới nước.
Hoàn toàn không có khả năng tự vệ, những con auk lớn đã bị giết bởi những kẻ săn lùng hung hãn để lấy thức ăn và mồi, đặc biệt là vào đầu những năm 1800. Một số lượng lớn đã bị các thủy thủ bắt giữ, họ thường lùa chim lên ván và giết chúng trên đường vào hầm tàu. Mẫu vật cuối cùng được biết đến đã bị giết vào tháng 6 năm 1844 tại đảo Eldey, Iceland, để trưng bày cho một bộ sưu tập bảo tàng.
1. Voi ma mút lông xoăn - Mammuthus primigenius
6 loai dong vat bi con nguoi san lung den tuyet chung-Hinh-6
Ảnh: FPLA/SuperStock 
Nhờ có một số xác đông lạnh được bảo quản tốt ở Siberia, voi ma mút lông xoăn là loài voi ma mút nổi tiếng nhất. Loài động vật khổng lồ này đã chết khoảng 7.500 năm trước, sau khi kết thúc Kỷ băng hà cuối cùng. Mặc dù biến đổi khí hậu chắc chắn đóng một vai trò quan trọng trong sự tuyệt chủng của chúng, nhưng các nghiên cứu gần đây cho thấy con người cũng có thể là động lực dẫn đến sự diệt vong của chúng, hoặc ít nhất là nguyên nhân cuối cùng.
Việc săn bắn rộng rãi và áp lực của khí hậu ấm lên là sự kết hợp khiến loài voi ma mút hùng mạnh cũng không thể trốn thoát được khỏi con người trong một thế giới hỗn loạn.

Giải mã 2 kịch bản có thể đẩy nhân loại đến thảm hoạ tuyệt chủng

Một số chuyên gia đưa ra 2 kịch bản về thảm kịch tuyệt chủng mà nhân loại có thể đối mặt trong tương lai. Những thông tin này khiến nhiều người lo lắng.

Giải mã 2 kịch bản có thể đẩy nhân loại đến thảm hoạ tuyệt chủng
Giai ma 2 kich ban co the day nhan loai den tham hoa tuyet chung
 Theo nghiên cứu của các chuyên gia, tiểu hành tinh 99942 Apophis là một mối nguy hiểm đối với Trái đất và có thể đẩy nhân loại đến thảm kịch tuyệt chủng.

Sự kiện tuyệt chủng lớn nhất trong lịch sử

Trái đất đã trải qua sự kiện tuyệt chủng hàng loạt lớn nhất trong lịch sử vào cuối kỷ Permi và đầu kỷ Trias, làm biến mất hơn 95% các loài sinh vật biển và 70% sinh vật sống trên cạn.

Sự kiện tuyệt chủng lớn nhất trong lịch sử
Cách đây khoảng 250 triệu năm, sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi-Trias đã xóa sổ hầu hết sự sống trên Trái đất. Thảm họa này nghiêm trọng đến mức giới khoa học ngày nay gọi nó là cuộc “Đại diệt vong” (Great Dying).
So với sự kiện tuyệt chủng ở kỷ Phấn trắng đã xóa sổ các loài khủng long cách đây 65 triệu năm, thời kỳ Đại diệt vong xảy ra ở quy mô lớn hơn nhiều. Gần như toàn bộ các loài sinh vật, bao gồm cả những loài sống dưới nước và trên cạn, lần lượt biến mất do không kịp thích nghi với sự biến đổi nhanh chóng của các điều kiện môi trường sống.
Sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi-kỷ Trias kéo dài trong thời gian khoảng 100.000 năm. Sau khi nó kết thúc, những sinh vật ít ỏi còn sót lại trở thành điểm khởi đầu cho các loài mới. Chúng tiếp tục tiến hóa và phát triển, trở thành nền tảng cho sự đa dạng sinh học ngày nay.
Sự sống trước Đại diệt vong
Trái đất là nơi rất khác biệt trong kỷ địa chất Permi. Đại dương rộng lớn chiếm phần lớn diện tích bề mặt, bao phủ quanh một lục địa duy nhất mang tên Pangea. Khác với kỷ Than Đá trước đó, địa cầu không còn những vùng đầm lầy rộng lớn với loài cỏ đuôi ngựa cao chót vót, những con côn trùng ngoại cỡ và thảm rêu trải dài.

Ảnh: Victor O. Leshyk, victorleshyk.com/phys.org.
Thay vào đó, các vùng đất của hành tinh trở nên chật hẹp hơn. Khí hậu bị chia cắt giữa vùng nội địa khô cằn và đường bờ biển mát mẻ. Những cây mang hạt, cứng cáp – chẳng hạn như cây lá kim – bén rễ rất xa và rộng. Các động vật lưỡng cư có ít môi trường sống thuận lợi hơn, nhường chỗ cho những loài động vật sinh sản không cần dựa vào nước. Chúng bao gồm synapsid [tổ tiên của động vật có vú ngày nay] và sauropsid [tổ tiên chung của nhiều loài chim và bò sát]. Những động vật biển xuất hiện trong thời kỳ trước đó, ví dụ như cúc đá, các loài cá có xương và cá mập, tiếp tục phát triển mạnh ở vùng biển ngập tràn ánh nắng.
Mặc dù sự sống ở đầu kỷ Permi khá đa dạng, nhưng điều này không kéo dài quá lâu. Khoảng 260 triệu năm trước, khoảng ba phần tư các loài bốn chân sống trên cạn đã biến mất khỏi hồ sơ hóa thạch vào giữa kỷ Permi. Nghe có vẻ tồi tệ, nhưng thảm họa này chẳng là gì so với những tổn thất mà Trái đất sẽ phải gánh chịu 10 triệu năm sau, vào cuối kỷ Permi, khi một thứ gì đó đã giết chết hơn 95% các loài sinh vật biển và 70% sinh vật sống trên cạn.
Các lớp địa tầng chứa hóa thạch trên dãy núi Alps tại Ý tiết lộ rằng thực vật cũng bị ảnh hưởng nặng nề tương tự các loài động vật. Các hóa thạch thực vật có niên đại vào cuối kỷ Permi cho thấy những khu rừng hạt trần khổng lồ bao phủ quanh khu vực. Tuy nhiên, lớp địa tầng ở đầu kỷ Trias có ít dấu hiệu của thực vật, thay vào đó là những tàn tích hóa thạch của nấm có thể đã sinh sôi, nảy nở trên những cây cối mục nát.
Nguyên nhân gây ra Đại diệt vong
Nguyên nhân chính xác khiến các loài sinh vật biến mất một cách nhanh chóng trong sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi-Trias vẫn là điều bí ẩn, một phần là do sự khan hiếm hóa thạch cũng như thảm họa tuyệt chủng đã xảy ra cách đây khá lâu nên các bằng chứng còn sót lại đều không rõ ràng.
Giả thuyết được nhiều nhà khoa học ủng hộ nhất liên quan đến một vụ phun trào núi lửa khổng lồ ở Siberia cách đây khoảng 252 triệu năm, tạo ra lượng dung nham và đá nóng chảy có thể tích lên tới 3 triệu km3. Ngày nay, chúng ta có thể tìm thấy bằng chứng về vụ phun trào này tại Siberia với một khu vực đá núi lửa lớn, bao phủ diện tích khoảng 7 triệu km2.
Núi lửa phun trào đã thiêu rụi cảnh quan xung quanh, đồng thời giải phóng thêm nhiều loại vật chất khác vào bầu khí quyển bao gồm tro bụi, khí carbon dioxide (CO2), lưu huỳnh dioxide (SO2), khí methane (CH4) và nhiều khoáng chất khác.
Lượng khí thải nhà kính khổng lồ CO2 và CH4 từ vụ phun trào đã làm Trái đất nóng lên nhanh chóng, gây ra biến đổi khí hậu trên diện rộng. Ngoài ra, nồng độ SO2 ở mức cao đã tạo ra mưa axit. “Khi đó, mưa ở Bắc bán cầu có tính axit rất mạnh. Độ pH của nước mưa có thể so sánh với nước chanh không pha loãng”, Benjamin Black, nhà nghiên cứu sau tiến sĩ tại Học viện Công nghệ Massachusetts (MIT), nhận định.
Đại dương hấp thụ phần lớn khí CO2 giải phóng từ vụ phun trào núi lửa. Nồng độ cao của CO2 hòa tan trong nước là chất độc đối với nhiều sinh vật sống ở biển, khiến chúng không thể phát triển vỏ và bộ xương một cách bình thường.
Các khí độc từ núi lửa cũng kích hoạt những phản ứng hóa học phá hủy tầng ozone, làm tăng bức xạ tia cực tím có hại cho DNA của sinh vật. “Trên toàn cầu, nồng độ ozone trung bình trong khí quyển giảm xuống dưới mức quan sát được trong lỗ thủng ozone ở Nam Cực vào những năm 1990”, Black cho biết.
Sự kiện tuyệt chủng quy mô lớn trong tương lai?
Trong suốt 500 triệu năm qua, Trái đất đã trải qua năm sự kiện tuyệt chủng hàng loạt. Sau mỗi biến cố lớn như vậy, quá trình tiến hóa đã giúp nhiều quần thể động vật tái sinh và đa dạng hóa, lấp đầy những khoảng trống được tạo ra khi các loài bị tuyệt chủng.
Tuy nhiên, với xu hướng nóng lên toàn cầu và tác động mạnh mẽ của con người đến các hệ sinh thái, nhiều nhà nghiên cứu tin rằng chúng ta đang phải đối mặt với sự kiện tuyệt chủng thứ sáu.
Gần 600 loài thực vật đã bị tuyệt chủng trong 250 năm qua, gấp đôi số lượng chim, động vật có vú và động vật lưỡng cư biến mất khỏi Trái đất trong cùng thời kỳ, theo kết quả nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nature, Ecology & Evolution vào tháng 6/2019.
Trong một nghiên cứu khác được công bố trên Kỷ yếu của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Mỹ (PNAS) vào năm 2018, các nhà khoa học tại Đại học Aarhus (Đan Mạch) phát hiện tốc độ tuyệt chủng của động vật đang xảy ra nhanh hơn tốc độ tiến hóa của tự nhiên. Họ sử dụng các mô phỏng tiến hóa mạnh mẽ để ước tính thời gian phục hồi của động vật có vú dựa trên tốc độ tuyệt chủng của chúng trong quá khứ và tương lai. Họ phát hiện ra rằng, thiên nhiên sẽ mất từ 5 đến 7 triệu năm tiến hóa để khôi phục lại sự đa dạng của động vật có vú ngang bằng với mức độ trước khi con người xuất hiện (kịch bản này giả định con người sẽ ngừng phá hủy môi trường sống và tiêu diệt các loài). Mô hình cũng cho thấy, sự tuyệt chủng trong 50 năm tới sẽ đòi hỏi thời gian phục hồi từ 3 đến 5 triệu năm.
Việc khám phá nguyên nhân gốc rễ của các sự kiện tuyệt chủng là một chủ đề hấp dẫn đối với giới khoa học. Bởi vì nếu hiểu được các điều kiện môi trường dẫn đến sự biến mất của phần lớn các loài trong quá khứ, chúng ta có thể ngăn chặn một sự kiện tương tự xảy ra trong tương lai. 

Cảnh báo nóng: Trái đất đang tăng tốc đến cuộc đại tuyệt chủng thứ 6!

Theo nghiên cứu của nhóm các chuyên gia Nhật Bản, sự thay đổi nhiệt độ toàn cầu càng lớn thì mức độ tuyệt chủng càng lớn. Dựa trên tính toán, họ nhận định nhân loại đang tiến đến cuộc đại tuyệt chủng thứ 6.

Cảnh báo nóng: Trái đất đang tăng tốc đến cuộc đại tuyệt chủng thứ 6!
Canh bao nong: Trai dat dang tang toc den cuoc dai tuyet chung thu 6!
 Nhà khoa học khí hậu Kunio Kaiho thuộc Đại học Tohoku, Nhật Bản dẫn đầu một nhóm chuyên gia mới công bố kết quả nghiên cứu gây chú ý liên qua đến cuộc đại tuyệt chủng thứ 6. Nghiên cứu này được công bố trên tạp chí khoa học Biogeoscience.

Đọc nhiều nhất

Tin mới