3 danh tướng xuất thân từ các học viện quân sự danh giá là ai?

Nhiều vị tướng được coi là thiên tài trong lĩnh vực quân sự, với khả năng thay đổi trật tự thế giới. Trong số họ, không ít người xuất thân từ các học viện quân sự danh giá.

Vasily Chuikov - Học viện Quân sự Frunze
3 danh tuong xuat than tu cac hoc vien quan su danh gia la ai?
 

 

Tướng Vasily Chuikov, tên đầy đủ là Vasily Ivanovich Chuikov sinh ngày 12/2/1900 tại Serebryannye Prudy (Nga). Trong Thế chiến II, ông là người đã chỉ huy lực lượng phòng thủ tại Trận Stalingrad, góp phần đánh bật quân đội của Adolf Hitler trở lại và dẫn đầu cuộc hành quân của Liên Xô tới Berlin.

Là con trai của một nông dân, Chuikov làm nghề thợ máy từ năm 12 tuổi. Năm 18 tuổi, sau Cách mạng Nga, ông gia nhập Hồng quân. Trận chiến đầu tiên của ông trong Nội chiến xảy ra tại Tsaritsyn (sau này được đặt tên là Stalingrad, nay là Volgograd).

Năm 1919, ông là đảng viên Đảng Cộng sản và trung đoàn trưởng. Ông tốt nghiệp Học viện Quân sự MV Frunze năm 1925. Sau đó, ông tham gia vào cuộc xâm lược Ba Lan của Liên Xô (1939) và trong Chiến tranh Nga - Phần Lan (1939 - 1940).

Vào tháng 8/1942, quân Đức mở cuộc tấn công trực tiếp vào Stalingrad, với 22 sư đoàn với hơn 700 máy bay, 500 xe tăng, 1.000 súng cối và 1.200 khẩu pháo. Đáp lại, tướng Chuikov tuyên bố: “Chúng ta sẽ giữ thành phố hoặc chết ở đây”.

Tướng Chuikov sau đó đã dẫn lực lượng vào lòng chảo Donets, tiến vào Crimea và về phía Bắc đến Belorussia trước khi hướng mũi nhọn của Liên Xô tới Berlin. Chuikov đích thân chấp nhận việc Đức đầu hàng Berlin vào ngày 1/5/1945.

Sau chiến tranh, ông phục vụ với lực lượng chiếm đóng của Liên Xô ở Đức (1945 - 1953), chỉ huy các lực lượng đó từ năm 1949. Ông đứng đầu quân khu Kiev từ năm 1953 - 1960. Sau đó, ông tổ chức nhiều nhiệm vụ quân sự tại Moscow. Ông là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản từ năm 1952 - 1961 và là Ủy viên chính thức từ năm 1961 cho đến khi qua đời.

Bernard Law Montgomery - Học viện Quân sự Hoàng gia Sandhurst
3 danh tuong xuat than tu cac hoc vien quan su danh gia la ai?-Hinh-2
 

 

Thống chế Anh Quốc Bernard Law Montgomery, Đệ nhất tử tước Montgomery của Alamein, là một tướng lĩnh quân đội Anh. Ông nổi tiếng vì đã đánh bại lực lượng Quân đoàn Phi Châu của tướng Đức Quốc xã Rommel tại trận El Alamein thứ hai.

Ông cũng là một người chỉ huy nổi bật của quân đội Đồng Minh ở Italy và Tây Bắc châu Âu, trong chiến dịch Overlord và sau trận Normandy.

Năm 1901, Montgomery học tại Trường St Paul’s, sau đó vào Trường Quân sự Hoàng gia Sandhurst (Anh). Ông từng suýt bị trục xuất khỏi trường vì gây gổ với một học sinh cùng khóa.

Ông từng hành quân đến Ấn Độ, Ai Cập và Palestine. Tháng 4/1939, ông được bổ nhiệm làm chỉ huy Sư đoàn thứ ba thuộc Lực lượng Viễn chinh Anh tham gia các giao tranh trước Trận chiến nước Pháp tháng 6/1940.

Ông thăng tiến nhanh chóng. Tháng 8/1942, ông được bổ nhiệm làm chỉ huy của Tập đoàn quân số tám, bao gồm lực lượng Anh và khối Thịnh vượng chung trong chiến dịch Sa mạc phía Tây (mặt trận Bắc Phi).

Montgomery chỉ huy Tập đoàn quân thứ tám trong các chiến dịch tiếp đó của quân Đồng minh tại đảo Sicily và đất liền Italy. Sau đó ông được gọi trở lại Anh để tham gia lên kế hoạch cho chiến dịch Overlord xâm chiếm vùng Normandy.

Trong cuộc đổ bộ Normandy và nhiều tháng sau đó, Montgomery chỉ huy toàn bộ quân Đồng minh tại Pháp. Tháng 9/1944, ông phải nhường lại vị trí này cho tướng Dwight Eisenhower và chuyển sang chỉ huy cụm tập đoàn quân số 21.

Montgomery dẫn dắt cụm tập đoàn quân của mình trong trận chiến với Đức và nhận lệnh đầu hàng của quân đội Bắc Đức tại Lüneburg Heath ngày 4/5/1945.

Sau chiến tranh, Montgomery được phong tước Hiệp sĩ Garter và Tử tước Montgomery của Alamein. Ông chỉ huy quân đội Anh đóng tại vùng Rhine và là người đứng đầu Bộ tổng tham mưu từ năm 1946 - 1948.

Từ năm 1948 - 1951, ông là chủ tịch của tổ chức phòng vệ thường trực thuộc Liên minh Tây Âu. Năm 1951, ông trở thành Phó tư lệnh Tổng hành dinh tối cao của NATO trong bảy năm. Ông qua đời vào ngày 24/3/1976.

Douglas MacArthur - Học viện Quân sự West Point (Mỹ)
3 danh tuong xuat than tu cac hoc vien quan su danh gia la ai?-Hinh-3
 

 

Douglas MacArthur (1880 - 1964) là vị tướng Mỹ chỉ huy khu vực Tây Nam Thái Bình Dương trong Thế chiến II (1939 - 1945). Ông là một trong những vị tướng nổi tiếng và gây tranh cãi nhất nước Mỹ.

Năm 1903, MacArthur tốt nghiệp xuất sắc nhất lớp tại Học viện Quân sự Hoa Kỳ tại West Point. Từ năm 1919 - 1922, Douglas MacArthur làm Giám đốc của West Point. Trong thời gian này, ông đã thực hiện nhiều cải cách nhằm hiện đại hóa ngôi trường.

Sau đó, ông giữ chức Tham mưu trưởng quân đội Mỹ và Thống chế quân đội Philippines. Trong Thế chiến II năm 1944, ông trở lại giải phóng Philippines, sau đó lãnh đạo lực lượng Liên Hợp Quốc trong thời gian bắt đầu Chiến tranh Triều Tiên. Mặc dù vậy, thời gian sau, do xung đột với Tổng thống Harry Truman về chính sách chiến tranh, ông bị cách chức chỉ huy.

Vào tháng 4/1951, Douglas MacArthur trở lại Mỹ - nơi ông được chào đón như một anh hùng và được vinh danh với các cuộc diễu hành ở nhiều thành phố khác nhau. MacArthur cùng vợ đến sống trong một căn phòng tại khách sạn Waldorf-Astoria của thành phố New York.

Năm 1952, nhiều người kêu gọi MacArthur tranh cử Tổng thống với tư cách là một đảng viên Cộng hòa. Tuy nhiên, cuối cùng đảng này đã chọn Dwight Eisenhower (1890 - 1969), người sau đó giành chiến thắng trong cuộc tổng tuyển cử. Cùng năm đó, MacArthur trở thành Chủ tịch của Remington Rand - một nhà sản xuất kinh doanh thiết bị điện máy.

MacArthur qua đời ở tuổi 84 vào ngày 5/4/1964 tại Bệnh viện quân đội Walter Reed ở Washington, D.C. Ông được chôn cất tại Đài tưởng niệm MacArthur ở Norfolk, Virginia.

Những hình ảnh màu cực hiếm về chiến dịch đổ bộ lớn nhất lịch sử

(Kiến Thức) - Chiến dịch Overlord tới nay vẫn được coi là chiến dịch đổ bộ lớn nhất lịch sử nhân loại với sự tham gia của 2 triệu Quân đồng Minh tham chiến trong khi đó ở phía đối nghịch, Đức chỉ huy động được tối đa 640.000 quân để phòng thủ.

Những hình ảnh màu cực hiếm về chiến dịch đổ bộ lớn nhất lịch sử

Mời độc giả xem Video: Quân lính Đồng minh trong chiến dịch Overlord đẫm máu.

Chiến dịch Overlord là tên mã của chiến dịch đổ bộ lên Normandie được thực hiện bởi quân đồng minh vào mùa hè năm 1944. Đây là chiến dịch đổ bộ lớn nhất lịch sử nhân loại khi chỉ trong vòng hai tháng, có tổng cộng hơn 2 triệu quân Đồng minh được thả xuống bãi biển Normandie ở phía Bắc nước Pháp - sẵn sàng đánh sâu vào đất liền để giải phóng quốc gia này.

Tinh hoa cầm quân trong loạt chiến dịch quân sự thành công nhất lịch sử

(Kiến Thức) - Trong lịch sử chiến tranh, không ít chiến dịch quân sự thành công nhờ khả năng lấy ít địch nhiều với mưu trí và sự khôn khéo của người chỉ huy.

Tinh hoa cầm quân trong loạt chiến dịch quân sự thành công nhất lịch sử
Tinh hoa cam quan trong loat chien dich quan su thanh cong nhat lich su
 Đầu tiên là cuộc Chiến tranh Sáu ngày giữa Israel và toàn bộ liên minh Ả Rập chung đường biên giới với quốc gia này. Do căng thẳng leo thang trước đó giữa các bên liên quan, Israel đã tung không quân để đánh phủ đầu đối phương. Nguồn ảnh: BI.

Chân dung tổng chỉ huy quân Mỹ ở chiến trường Thái Bình Dương

Đó là Tướng Douglas MacArthur, người mà con đường lên đỉnh danh vọng được xây dựng trong các cuộc chiến khốc liệt tại Philippines hồi Thế chiến Hai.

Chân dung tổng chỉ huy quân Mỹ ở chiến trường Thái Bình Dương

Trong Thế chiến thứ nhất, MacArthur – thủ khoa khóa 1898-1903 Học viện quân sự West Point là Tham mưu trưởng Sư đoàn Rainbow, rồi Lữ đoàn trưởng Lữ bộ binh số 84. Lập nhiều chiến công ở chiến trường Pháp, tháng 8/1918, MacArthur trở thành Chuẩn tướng trẻ nhất trong lịch sử quân đội Mỹ.

Một năm sau, ở tuổi 39, Douglas MacArthur được bổ nhiệm làm Giám đốc Học viện quân sự West Point, trở thành giám đốc trẻ nhất trong lịch sử 117 năm của học viện quân sự danh giá nhất nước Mỹ. Trong những năm làm việc tại đây, MacArthur đã xây dựng quy mô West Point lớn gấp ba lần và hiện đại hóa toàn bộ chương trình đào tạo. Với thành tích này, năm 1925, ở tuổi 45, MacArthur được phong quân hàm trung tướng-cũng là một kỷ lục trong lịch sử lục quân Mỹ.

Chan dung tong chi huy quan My o chien truong Thai Binh Duong

Tướng Douglas MacArthur (đứng giữa). Ảnh: Wikipedia

Năm 1930, MacArthur được phong Đại tướng 4 sao, đồng thời được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng lục quân Mỹ. Trên cương vị này, MacArthur đã giúp đưa lục quân Mỹ lên hàng thứ 16 về quân số trên thế giới với 13.000 sĩ quan và 126.000 binh sĩ, trong đó, 4 quân đoàn đã được tái cơ cấu để nâng cao sức mạnh chiến đấu.

Năm 1935, Tổng thống Franklin Roosevelt chọn MacArthur làm cố vấn quân sự tại Philippines. Nhờ thành tích giúp xây dựng quân đội cho đất nước vừa được nhận quy chế bán độc lập này, MacArthur được phong Thống tướng quân đội Philippines, trở thành sĩ quan Mỹ duy nhất giữ cấp bậc thống tướng trong quân đội Philippines.

Sau trận Trân Châu cảng, MacArthur được giao chức vụ Tổng chỉ huy quân Đồng minh ở khu vực Thái Bình Dương, đóng tổng hành dinh ở Philippines. Trên cương vị mới, MacArthur đã gây nhiều tranh cãi, đặc biệt là khi ông này gạt bỏ đề xuất của cấp dưới về việc thực hiện không kích các căn cứ Nhật Bản ở Đài Loan (Trung Quốc) mà thay vào đó, lại cho cất giấu các máy bay để tránh quân Nhật tấn công tiêu diệt. Tuy nhiên khi quân Nhật tấn công Philippines, quá nửa số máy bay này đã bị phát hiện và phá hủy.

Một sai lầm lớn khác của MacArthur là chủ trương phòng thủ Luzon. Trước khi nổ ra trận đánh, ban tham mưu Mỹ cho rằng phòng thủ là không thực tế, tốt nhất là thực hiện một cuộc rút lui trật tự về bán đảo Bataan. MacArthur vứt bỏ kế hoạch này vì cho rằng có thể đánh bại quân Nhật trên chiến trường.

Tuy nhiên, quân Nhật đã thực hiện chiến thuật đưa trận chiến ra biển, đánh rồi rút, rút rồi lại đánh liên tiếp vào sườn lực lượng Mỹ. Cuối cùng, quân Mỹ tháo chạy về pháo đài Bataan mà không có quân nhu dự trữ cần thiết. Sau cuộc kháng cự kéo dài nhiều tháng, họ bắt buộc phải đầu hàng, đơn giản là vì hết lương thực. Đây là đợt đầu hàng tập thể lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ. Lực lượng còn lại phải rút chạy đến Australia, khi rút, MacArthur đã có một câu nổi tiếng: "Tôi sẽ trở lại nơi đây".

Tại Australia, MacArthur dành chủ yếu năm 1942 để xây dựng lực lượng. Tuy nhiên, tính kiêu ngạo khiến ông ta không thể hợp tác cùng quân Australia trong quá trình phòng thủ New Guinea. Cuối năm đó, MacArthur lại phạm sai lầm khi quyết định tiến đánh Peleliu, căn cứ vững chắc nhưng ít có giá trị chiến lược của Nhật Bản, khiến quân Mỹ thiệt hại hơn 10.000 người và phải mất 2 tháng để kiểm soát hòn đảo này.

Đến đầu năm 1944, quân đồng minh do MacArthur chỉ huy làm chủ New Guinea, New Britain, Solomon và đảo Admiralty. Đặc biệt, cách thức MacArthur sử dụng không quân trong chiến dịch New Guinea đã ảnh hưởng tích cực đến cuộc chiến trên bộ.

Cuộc tiến công của các lực lượng trên bộ Mỹ tại bờ biển dài 2.400km được tính toán để máy bay có thể hỗ trợ chiến thuật. Bằng cách tiến quân từng bước một và luôn trong tầm của các máy bay chiến đấu của mình, quân Mỹ đã duy trì được lợi thế hỏa lực cho toàn bộ chiến dịch. Điều này cũng ngăn chặn không cho đối phương tiếp tế bằng đường biển và đường không, chia cắt hữu hiệu các lực lượng Nhật khi tấn công.

Tháng 10/1944, MacArthur khăng khăng đòi Tổng thống Roosevelt cho chiếm lại Philippines. Trận đánh ở vịnh Leyte đã làm thiệt hại nhiều nguồn lực của Mỹ tới mức nhiều chính giới cho rằng chính MacArthur phải chịu trách nhiệm cho việc kéo dài cuộc chiến ở Thái Bình Dương.

Dù sao, quân Mỹ và đồng minh giành thắng lợi trong trận hải chiến vịnh Leyte, qua đó giúp MacArthur thực hiện được lời hứa quay trở lại Philippines. Cũng nhờ trận chiến này, tháng 12/1944, MacArthur được thăng cấp Đại tướng 5 sao.

Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc, ngày 2/9/1945, trên chiến hạm Missouri neo đậu trong vịnh Tokyo, MacArthur chính là người thay mặt nước Mỹ chứng kiến đại diện Nhật Bản ký văn kiện đầu hàng vô điều kiện.

Đọc nhiều nhất

Tin mới